Thứ Hai, 24 tháng 12, 2018

KÝ ỨC VỀ NGÔI TỪ ĐƯỜNG CỔ (1612 - 2017)


KÝ ỨC
VỀ NGÔI TỪ ĐƯỜNG CỔ
                           
                                       (1612 - 2017)
                 
                Biên soạn:       LÊ HỮU QUANG
                                              Cành nhất họ Lê Hữu



Ci ngun
Họ Lê Hữu bắt đầu từ cụ Lê Hối, người thôn Như Áng, cụ bà là Nguyễn Thị Ngọc Duyên, người thôn Quần Đội. Cụ bà làm ruộng, cụ ông dạy học. Ngày nhàn rỗi cụ ông hay đi chơi ở vùng núi Lam Sơn, thấy một nơi có nhiều cò đỗ, ví như đông người tụ hội. Cụ biết đây là mảnh đất tốt, cụ cho gia nhân đem nhà ra đó dựng, ở và lập ấp gọi là ấp Du Sơn. Ba năm sau Du Sơn thành trang trại lớn, có nhiều gia hạ cùng ở, cùng làm.
Tại Du Sơn cụ Lê Hối sinh ra cụ Lê Đinh. Cụ Lê Đinh lấy cụ bà là Nguyễn Thị Ngọc Quách, người làng Xuân Lam. Hai cụ sinh hạ được hai người con trai là Lê Tòng và Lê Khoáng.
Cụ Lê Tòng không có con trai - thất truyền.
Cụ Lê Khoáng, cụ bà là Trịnh Thị Ngọc Thương, hai cụ có ba người con trai là Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi.
Cụ Lê Học rất quan tâm chăm sóc các em, ông có người con trai là Lê Thạch. Khi Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa, Lê Thạch là một trong những người đầu tiên đã nhiệt liệt hưởng ứng. Bầy giờ, Lê Thạch đã là một thanh niên cường tráng và nổi danh có chí khí hơn người, ông có công đóng góp cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong nhừng ngày gian khổ đầu tiên không phải là nhỏ. Năm 1418, khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lê Thạch là một trong những tướng tâm phúc của nghĩa quân do Bình Định vương Lê Lợi cầm đầu. Tuổi trẻ mà tài cao lại giàu lòng nhân ái. Vì thế, Lê Thạch được binh sĩ dưới quyền kính phục mà vâng theo. Sách Đại Việt thông sử có đoạn chép về ông như sau: "Ông tính người nhân ái, ham đọc sách, đã dũng lược hơn người lại khéo vỗ về quan sĩ dưới quyền". Sinh thời, Lê Thạch được Bình Định vương Lê Lợi phong tới chức Thiết Kỵ Vệ Thứ Thú (Nghĩa là phó chỉ huy vệ quân Thiết Kỵ), tước Lương Nghĩa hầu. Thiết Kỵ là vệ quân thường làm nhiệm vụ đột phá và mở đường cho Lam Sơn trong các trận đánh quan trọng. Lương Nghĩa Hầu là tước thuộc hàng cao nhất của các tướng bấy giờ. Từ năm 1418- 1421, Lê Thạch đã tham gia nhiều trận đánh khác nhau trong đó có 4 trận lớn và cả 4 trận ấy, ông đều được coi là người lập công đầu.
Cụ Lê Trừ lo việc nhà, việc họ. Lê Lợi lo việc nước; khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đã truy tôn:
Cụ Lê Hối là Triệu tổ Cao Hoàng Đế, cụ bà là Phổ từ Hoàng Thái Hậu "Triệu Tổ là người gây dựng".
Cụ Lê Đinh là Tuyên Hổ Phác Hoàng Đế, cụ bà là Chính từ Hoàng Thái Hậu.
Cụ Lê Khoáng là hiển tổ Thạch Hoàng Đế, cụ bà là Hiển từ Hoàng Thái Hậu.
Cụ Lê Trừ, cụ bà là Lê Thị Ngọc Lăng, người thôn Thái Lai, được truy phong là Hoàng Dụ Vương và Trinh Cẩn Thái Phi. Hai cụ có ba người con trai là Lê Khang, Lê Khôi và Lê Trạch.
Cụ Lê Khang lo việc nhà, cụ bà là Lê Thị Ngọc Ái được phong là Qúy Quốc Công và Đoan Thúy Thái Phi. Hai cụ sinh ra cụ Lê Khánh.
Cụ Lê Khôi đi đánh giặc với chú là Lê Lợi. Lê Khôi luôn sát cánh bên cạnh chú ruột là Lê Lợi từ khi mới dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, cùng chia ngọt xẻ bùi, một lòng một dạ chiến đấu vì nghĩa cả thiêng liêng là lật nhào ách đô hộ của quân Minh, giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước. Nhân dân mô tả ông "Mình đeo bên trái một túi tên, bên phải cũng một túi tên, theo vua ra trận" xông pha trận mạc, lập được nhiều chiến công rực rỡ, ông là một dũng tướng tài ba. Thời bình ông là một viên quan thanh liêm trị bình đất nước.
Trận đánh ở Khả Lưu, Lê Khôi cùng Lê Sát xông lên trước hãm trận, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng tiên phong Hoàng Thành, giết và bắt binh sĩ giặc nhiều vô kể, về sau ông lại cùng Phạm Vấn, Lê Sát phá giặc Minh ở thành Xương Giang, bắt sống Hoàng Phúc và Thôi Tụ cùng mấy ngàn quân địch, dẹp yên giặc, khôi phục Đông Đô.
Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428) ông được phong Bảo Chính công thần nhập nội thiếu úy. Năm thuận thiên thứ hai khắc biển công thần, ông đứng hàng thứ hai trong bảng Đình Thượng hầu thập tứ nhân, được tham dự triều chính.
Năm thuận thiên thứ ba (1430) lúc này người Man ở Châu Thuận Hóa chưa phục, lại giáp với nước Chiêm Thành, muốn cho một trọng thần trấn giữ, Lê Thái Tổ giao cho Lê Khôi đem quân vào. Đến châu Thuận hóa, Lê Khôi cho dỡ bỏ trạm gác, bỏ việc xét hỏi nghiêm ngặt, tập hợp dân phiêu dạt, dạy bảo cày ruộng, trồng dâu, ngày đêm luyện tập quân sĩ, giữ vững biên cương bờ cõi, chính sự nghiêm minh nên được nhân dân kính mến. Đường biên giới nhiều người bị bắt đều được ông đối đãi tử tế rồi tha cho về. Do đó Chiêm Thành càng ngày càng sợ oai và mến đức ông. Mỗi khi có cống sứ người Chiêm sang họ thường hỏi thăm ông có được mạnh khỏe không.
Tháng 11 năm Thuận Thiên thứ 3 (1430), bọn Bế Khắc Thiệm và Nông Đức Thái bạo loạn ở Thanh Lâm, Thái Nguyên. Lê Thái Tổ đem quân đi đánh. Lê Khôi đem quân từ Thuận Hóa cùng hợp binh đánh bắt được bọn Bế Khắc Thiệu, vua Lê Thái Tổ ban tặng ông kim phù và áo bào.
Năm Thuận Thiên thứ 6, vua bệnh tình ngày càng một nặng, triệu ông vào nội cung bàn việc truyền ngôi cho Lê Nguyên Long.
Khi Lê Thái Tông lên ngôi, Lê Khôi một lòng giúp vua việc nước.
Năm Thiệu Bình thứ 4 (1437) Lê Thái Tông cho ông làm Nhập nội tư mã, tham dự chính sự, coi việc quân ở đạo Hải Tây (Thanh Hóa- Nghệ An- Tân Bình -Thuận Hóa)
Năm Thiệu Bình thứ 6, Lê Khôi theo vua đi đánh Ai Lao, Bắt sống được tướng Man là Đạo Mông.
Năm Bảo Đại thứ 2 (1441), tù trưởng Man Nguyễn ra hàng, xét định công lao Lê Khôi được tiên phong nhập nội đô đốc tham dự triều chính, phàm việc nhỏ to vua đều hỏi ông rồi mới quyết định.
Sau vì việc riêng Lê Khôi bị cách chức và nhàn cư ở nhà. Lê Nhân Tông lên Ngôi thấy ông là bậc nguyên thần cũ, năm Thái Hòa thứ nhất (1448) lại mời ông ra nhập nội thiếu úy coi việc phủ Nghệ An. Khi Lê Khôi vào đến trấn Nghệ An nhân dân đứng đón ông chật cả 2 bên đường. Họ giơ tay lên trán để chào và nói: "Chúng tôi mong chờ ông đã lâu rồi, ngày nay trời mới sinh phúc cho dân chúng như tôi vậy". Chỉ sau một vài năm chính sự được công bằng, kiện cáo được xét sử thỏa đáng, mùa màng tươi tốt, dân yên vật thịnh, tiếng ca tụng ân đức của ông lan truyền từ thành thị đến làng cùng ngõ vắng, bởi tính ông bình dị, gần dân, nên được nhân dân cả vùng yêu mến tin tưởng.
Năm Thái Hòa thứ 2 (1449), chúa Chiêm Thành là Bí Cái dốc hết lực lượng trong nước ra cướp thành Châu Hóa, năm thứ 3 (1450) lại đem quân đánh thành An Dung thuộc Châu Hóa. Lê Nhân Tông sai quan Tư Đỗ, Lê Thận (Nguyễn Thận), đô đốc Lê Xí (Nguyễn Xí) đem quân đánh dẹp, sai ông đem quân đi tăng viện, trận ấy Chiêm Thành thua phải bỏ chạy về nước, vua phong ông là Nhập nội tham dự triều chính, nhưng vẫn coi giữ Chấn Nghệ An, vì có việc sắp đi đánh dẹp Chiêm Thành.
Năm Thái Hòa thứ 4 (1451), Lê Nhân Tông sai bọn đô đốc Lê Khả (Trịnh Khả) đi đánh dẹp phướng Nam, ông đem quân Bản bộ tiến trước, khi đến đất địch biết có quân Lê Khôi bèn gọi sang hỏi: 'Có phải ông Tư mã đến đây không ?" ông bèn bỏ mũ chụp ra cho giặc thấy mặt. Giặc đều xuống ngựa lạy xin hàng, nộp cống vật địa phương, quân ông đi đến đâu giặc tan đến đó, đánh vào thành Đồ Bàn bắt được chúa Chiêm là Bí Cái, rồi rửa giáp thu quân về. Trên đường về Lê Khôi bị bệnh nặng và mất ở chân núi Long Ngân, gần cửa biển Nam Giới, quân sĩ thương sót ông kêu khóc vang trời dậy đất, vua bỏ  triều 3 ngày sai quan đến phúng điếu, tặng chức nhập nội đô đốc. Nhân dân Hoài Châu (Nghệ An) thương tiếc và nhớ ân đức của ông lập miếu thờ. Tại Thạch Hà, Hà Tĩnh xây dựng đền thờ Lê Khôi (Trong Đền Có tượng thờ Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi). 
Cụ Lê Trạch, từ nhỏ đã được Thái tổ nuôi nấng, yêu quý như con. Ông là người dũng cảm, mưu lược.Trong những năm đầu mới khởi nghĩa, ông làm tướng tiên phong xông lên hãm trận lập nhiều chiến công vang đội…Trong một trận đánh lớn Lê Trạch dẫn quân xung kích đi đường tắt đánh úp, không may trúng phải tên độc hy sinh, vua và tướng sĩ vô cùng thương tiếc. Năm thuận thiên thứ nhất, ông được phong tặng nhập nội kiểm hiệu Thái úy, Bình chương quốc công trọng sư Lương quận công. Năm Đại Bảo Thứ nhất tặng lương quốc công vi trung dũng anh nghị vương. Năm Quang Thuận thứ nhất tặng lương quốc công trung dũng anh nghị Trịnh hiền trang túc vương.
Cụ Lê Khánh, cụ bà là Lê Thị Ngọc Đoan, được phong là Quang Nghiệp Vương và Đoan Thuận Thái Phi. Hai cụ sinh ra cụ Lê Thiện (Lê Thiệu). Năm 1527 loạn nhà Mạc. Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Cụ Lê Thiện cùng gia quyến về làng Vệ Yên khai cơ lập ấp. Họ Lê Hữu có mặt ở làng Vệ Yên từ đó. Cụ Lê Thiện, cụ bà là Lê Thị Ngọc Tuệ được truy tôn là Trang Giản Vương và Tuy Lý Thái Phi, nối dòng cụ Lê Trừ bát hương nhà thờ tổ cũng theo cụ Lê Thiện về làng Vệ Yên Từ đó.
Cụ Lê Thiện sinh ra cụ Lê Trầm, có nơi viết là Lê Quông, sách sử ghi là Lê Tiên. Cụ Lê Trầm, cụ bà là Phạm Thị Ngọc Lân, hai cụ là ông nội của vua Lê Anh Tông, được truy tôn là Hiển Tôn Nhân Hoàng Đế và Từ khâm Hoàng Thái Hậu.
Cụ Lê Trầm có sáu người con trai. Gặp thời tao loạn và đói kém, thất lạc mất bốn người. Tại làng Vệ Yên còn lại cụ Lê Cơ và cụ Lê Cư. Cụ Lê Kiên mãi cuối thể kỷ XX con cháu mới tìm về.
Cụ Lê Cơ lấy cụ bà là Trần Thị Phác, người làng Kiều Đại, định cư ở làng Kiều Đại, sinh ra Lê Duy Bang - Vua Lê Anh Tông. Cụ Lê Cư ở làng Vệ Yên. Cụ Lê Cơ mất sớm, cụ Lê Cư thay dòng trưởng lo việc nhà, việc họ. Khi Lê Duy Bang lên ngôi Vua Lê Anh Tông đã phong cho chú là cụ Lê Cư, là Hoàng Quang Đại Vương và phong cho cụ Lê Lân - Em con nhà chú - con cụ Lê Cư là Minh Mẫn Đại Vương.
Lê Duy Bang lo việc nước. Cụ Lê Lân nối nghiệp cha lo việc nhà, việc họ. Minh Mẫn Đại Vương Lê Lân sinh ra cụ Lê Đạt - Tư Mã Tham Chính tỉnh Nghệ An. Cụ Lê Đạt, cụ bà là Trịnh Thị Hoan, hai cụ có 07 người con trai.
1- Lê Quỳ - Vô tự
2- Lê Nhiên - có 03 người con trai chết bệnh dịch năm Kỷ Dậu.
3- Lê Chí - Tổ cành 1
4- Lê Lệ - Vô tự
5- Lê Mai - Tổ cành 2
6- Lê Vũ - Tổ cành 3
7- Lê Nghiêm Công - Tổ cành 4 ở Quỳnh Vinh - Nghệ An.
Năm 1600 cháu nội cụ Lê Duy Bang là Lê Duy Tân lên ngôi Vua Lê Kính Tông, đã điều chú là cụ Lê Đạt về bảo quản giáp Vệ Yên. Cụ Lê Đạt kế nghiệp ông, cha lo việc nhà, việc họ, lo xây dựng nhà thờ họ Lê Hữu ở thôn Vệ Yên.




TỪ ĐƯỜNG HỌ LÊ HỮU
                           
                                    (1612 - 2017)



Dòng họ Lê Hữu ở làng Vệ Yên hiện nay có nguồn gốc
từ dòng Hoàng đế Lê Lợi. Thuỷ tổ là cụ Lê Hối (cụ nội của Hoàng đế Lê Lợi) sinh ra ông Lê Đinh. Đến đời ông Lê Khoáng (con ông Lê Đinh) sinh được 3 người con trai: Lê Học, Lê Trừ, Lê Lợi. Lê Lợi là linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân Minh, suốt 10 năm “nếm mật nằm gai” lãnh đạo cuộc kháng chiến chống giặc Minh thắng lợi, giành độc lập tự do cho dân tộc. Ông được người đời tôn vinh là Anh hùng Áo vải ở đất Lam Sơn. Hết bóng quân thù ông làm lễ hoàn gươm và về Đông Đô lo việc dân, việc nước. Người anh thứ 2 là Lê Trừ ở quê nhà Lam Sơn lo việc làng, việc họ, cúng giỗ tổ tiên, xây từ đường họ Lê. Năm 1527, loạn nhà Mạc (nghịch thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê Cung Hoàng) triều đình nhà Lê tạm ẩn vÒ c¸c miÒn quª để từng bước khôi phục giang sơn đất nước. Trang Giản Vương Lê Thiện (Lê Thiệu) là chắt của cụ Lê Trừ cùng gia đình về làng Vệ Yên (Phường Quảng Thắng ngày nay) khai cơ, lập ấp. Họ Lê Hữu có ở làng Vệ Yên từ đó. Bát hương họ Lê từ đất Lam Sơn cũng được di dời về vùng đất này-Bát hương hội đồng thờ liệt tổ, liệt tông nhà Hậu Lê được hai cụ tôn lập, thờ phụng: Triệu tổ Cao Hoàng Đế Lê Hối (cụ nội Lê Lợi) Tuyên hổ phác Hoàng Đế Lê Đinh (ông nội của Lê Lợi) Hiển Tổ Thạch Hoàng đế Lê Khoáng (thân phụ của Lê Lợi) và các vị liệt tổ, liệt tông khác.
         Năm 1600, vua Lê Kính Tông (tức Lê Duy Tân) hạ chiếu điều cháu là Quan Tư Mã Tham Chính Tướng Công Lê Đạt từ Nghệ An về bảo quản giáp Vệ Yên. Cụ Lê Đạt kế nghiệp cha ông lo việc nhà, việc họ, xây dựng từ đường họ Lê Hữu ở thông Vệ Yên.
         Năm 1612, khi loạn nhà Mạc được dẹp yên, vua Lê Kính Tông từ Đông Kinh gửi về cung tiến từ đường họ Lê Hữu bức đại tự đề 4 chữ vàng "Khánh Nguyên Thuỳ Thế" có nghĩa là “nguồn lớn lao, trải mãi các đời”. Từ đường họ Lê Hữu là nơi thờ tự những vị tiên tổ có công khai sáng triều Lê và mở mang xây dựng làng Vệ Yên cho đến ngày nay.
Như vậy, từ đường họ Lê Hữu có từ năm 1612 đến nay đã hơn 400 năm tuổi (Được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh). Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử cùng với sự tác động của thời gian, từ đường họ Lê Hữu hàng năm có phần xuống cấp nhưng với sự điều hành cuả Trưởng họ, Hội đồng gia tộc con cháu họ Lê Hữu từng năm đã cùng nhau, đồng lòng, đồng sức thường xuyên góp ý tưởng, công sức, tiền của để trùng tu, tôn tạo, mở rộng diện tích khu từ đường, lăng mộ; chúng ta đã có một ngôi từ đường hơn 400 năm tuổi tôn nghiêm để phụng thờ tiên tổ thoả ước nguyện của con cháu dòng tộc nội ngoại gần xa.
 Tháng 4 năm 2017 cô Lê Thị Thanh Hằng là con gái ông Lê Hữu Hằng và chồng là Lương Huy Quang cùng các con trai, gái, dâu, rể và anh, chị, em trong gia đình ở Hải Phòng đã thuyết phục hội đồng gia tộc xin được cung tiến xây dựng thay thế từ đường giai đoạn 1612-2017. Từ đường được phá dỡ và khởi công xây dựng vào ngày 05 tháng 5, hoàn thành vào ngày 09 tháng 9 năm Đinh Dậu (2017).                
                        


TỪ ĐƯỜNG
Xưa kia, thôn Vệ Yên thời Lê Triều là Kiều Đại giáp, Vệ Yên giáp thuộc xã Bố Vệ. Thời Lê Trung Hưng thì thôn Vệ Đà được dòng họ Lê, Đàm, Đỗ, sang khai khẩn mới gọi là thôn Vệ Yên. Đến Nguyễn Triều mới tháp thôn Vệ yên về huyện Quảng Xương, làng Kiều Đại ở Đông Sơn. Năm 1948 tháp 11 thôn làm xã Quảng Thắng thuộc huyện Quảng Xương (nay là phố 3, Phường Quảng Thắng, Thành Phố Thanh Hóa). Quần thể từ đường họ Lê Hữu gồm có từ đường và Điện thờ hai bà cô Tổ họ Lê. Từ đường ở Nguyên vị trí hiện tại (trong ảnh), Điện thờ hai bà cô Tổ ở bên phải nhà thờ họ và chếch lên phía trước khoảng 5 mét. Trong quần thể từ đường xưa có bia đá được đặt trên lưng cụ rùa tại vị trí phía tây chính tẩm, mặt bia hướng về phía nam (Bia có kích thước khoảng 0,9m x 1,6m x 0,2m). Xung quanh mặt trước có hoa văn được trạm khắc rất tinh sảo, chữ khắc trên mặt bia là chữ nho. Trước từ đường về phía đông là một khánh bằng đá (Khánh đá có kích thước dài khoảng 2,0 m, chổ rộng nhất khỏang 0,9m) khánh được treo trên hai cột bằng đá bởi một trục; các cụ cao niên kể lại rằng trong ngày giỗ họ tiếng khánh khi đánh vang rất xa, nhân dân làm ruộng ở các cánh đồng đều nghe; phía đông và phía tây trước từ đường có 2 ngựa bằng đá quay về phía nam. Hai ngựa được khắc rất tinh sảo, thể hiện rõ dây cương, yên ngựa, chuông đeo ở cổ, có giá trị thẩm mỹ cao và uy nghiêm. Từ đường gồm có chính tẩm, cung vào chính tẩm (hai bên hông cung vào chính tẩm có cung vòm thờ) và sảnh đường gồm ba gian, gian giữa có một tắc tải bằng đá hình ngai, trước tắc tải là một phiến đá giống như một cái sạp dùng để ngồi tế, lễ tổ. Phía trên tắc tải có một bức đại tự; hai bên tắc tải bằng đá có hai hạc cao đứng chầu trên lưng hai cụ rùa. Hai cột phía trong của gian giữa sảnh đường treo hai câu đối bằng gỗ. Trên cửa vào chính tẩm đắp bức đại tự hình lược, hai bên cửa đắp hai câu đối, đại tự và câu đối được đắp bằng vôi, cát và vật liệu gì không rõ nhưng rất vững chắc. Khoảng năm 1962 khi đó phong trào chống mê tín dị đoan phát triển mạnh; UBND xã chỉ đạo hợp tác xã nông nghiệp phá dỡ điện thờ hai bà cô Tổ lấy vật liệu đẻ xây dựng trường học (Hai pho tượng của hai bà cô Tổ phải chuyển vào chính tẩm của từ đường họ để bảo vệ. Gia phả, các sắc phong và nhiều đồ thờ bằng gỗ, bằng vải, bằng giấy ... bị ẩm mục, hư hỏng không còn nữa) và có ý định phá dỡ từ đường. Song con dâu trưởng dòng họ: Bà Hồ Thị Mai đã kiên trì bảo vệ nên chỉ phá toàn bộ Tắc Tải, bia, rùa, ngựa, khánh bằng đá để nung vôi. Sau này dưới sự điều hành của trưởng họ, hội đồng gia tộc con cháu đã góp công, góp sức, góp trí tuệ, góp tiền ... đã khôi phục được khánh bằng đá, tắc tải, bức võng và hai câu đối bằng gỗ. Phía đông chính tẩm từ đường xây dựng bổ sung chính tẩm thờ hai bà cô Tổ họ Lê. Sảnh đường xưa thấp, hẹp được tôn cao, mở rộng và xây dài hết hai chính tẩm thành 4 gian. Gác chuông được xây mới, trên treo chuông, dưới chuông là khánh đá (Khánh đá đá được khôi phục vào năm 1989).
Trong chính tẩm có 3 ngai được chạm chổ tinh sảo và sơn son thếp vàng, trên ngai đặt bài vị. Bên phải là ngai và bài vị, phiên âm nguyên văn: Tổ cố Lê Triều tặng phong Hoằng quang đại vương Lê tướng công. Tự đức Cư thần vị. Bên trái là ngai và bài vị: Tổ cố Lê Triều tặng phong minh mẫn đại vương Lê Tướng Công tự đức Lân chi thần vị. Phía trước (Thấp hơn) là ngai và bài vị, phiên âm nguyên văn là: Thủy Tổ Tiền cố Lê triều Tư Mã tham chính Nghệ An Lê Tướng công tự Đức Đạt thần vị. Sau này ông bà Lê Hằng ở Hải Phòng về có đưa vào chính tẩm nhà thờ họ pho tượng Lê Lợi.
        Trong chính tẩm mới xây dựng thờ hai bà cô Tổ (có hai pho tượng cổ của hai bà):
        Bên phải là bà chị:   Đệ nhất Lê Lang - Tiên dung công chúa Mai Hoa
                               Hiệu diệu Tuyết Quỳnh - Quy tại chùa Hương Tích.
        Bên trái là bà em:     Đệ nhị Lê Lang - Quế hoa công chúa
                               Mỹ nữ Tôn Năng - Xuân Hoa Lệ Nương
        Thường ngày thắp hương vào sáng sớm và đầu tối cả 2 chính tẩm. Các ngày tuần hương khói phụng thờ từ sáng sớm ngày 30 và 14, hóa vàng vào tối 01 và rằm.



Cổng vào Từ Đường họ Lê Hữu
                                Xây dựng năm 2011

Dưới sự điều hành của trưởng họ và hội đồng gia tộc, sự đồng lòng của con cháu dòng họ, người góp công, góp sức, góp trí tuệ và cung tiến tiền để mở rộng sân, lát gạch đỏ, xây dựng lại bức bình phong; xây mới tháp hóa vàng 5 tầng, cổng vào từ đường. Giữa hai mái cổng có khắc hàng chữ là: Lê Môn  Đường.   Hai cột cổng khắc hai câu đối có nội dung là:
"Tổ tông công đức thiên niên thịnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh "

                    - Bức bình phong trước từ đường  (Khôi Phục năm 2011)
                    - Tháp hóa vàng 5 Tầng (Xây mới năm 2011)

Từ Đường họ Lê Hữu xưa thuộc Kiều Đại giáp, Vệ Yên giáp thuộc xã Bố Vệ, tổng Lưu Vệ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia; nay thuộc phố 3 Vệ Yên, Phường Quảng Thắng, Thành Phố Thanh Hoá.
                      (Từ Đường Lê Hữu tròn  400 năm tuổi: 1612 - 2012)

Đây là nơi thờ tự các tiền nhân thuộc dòng dõi Lê Trừ, anh trai Hoàng đế Lê Lợi, có công khai sáng triều Lê và mở mang xây dựng làng Vệ Yên, là Hoàng Quang Đại Vương Lê Cư, Minh mẫn Đại vương Lê Lâm, Tư mã Tham chính Tướng Công Lê Đạt... Từ Đường được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII) và được trùng tu, tôn tạo vào thời Nguyễn. Trong quần thể từ đường có điện thờ hai bà cô Tổ bị phá dỡ vào thời kỳ (Khoảng năm 1962 khi đó phong trào chống mê tín dị đoan phát triển mạnh; UBND xã chỉ đạo hợp tác xã nông nghiệp phá dỡ điện thờ hai bà lấy vật liệu đẻ xây dựng trường học); Từ đường hằng năm được tu sửa; được nâng cấp mở rộng năm 1996 -1997.
        Từ đường hiện còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, có giá trị lịch sử văn hóa như: bài vị, ngai thờ, đại tự, câu đối, tượng thờ... Từ đường họ Lê Hữu đã được UBND tỉnh Thanh Hoá xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa theo quyết định số 318/QĐ-UBND, ngày 04/02/2009. Hiện nay, di tích có vị trí như sau: Phía Nam giáp ngõ vào, các phía còn lại giáp nhà dân.


Từ Đường họ Lê Hữu (1612 - 2017)
Từ Đường được xếp hạng Di Tích Lịch Sử văn hóa cấp tỉnh
(Họ Lê Hữu tổ chức kỷ niệm Từ Đường tròn 400 năm tuổi vào năm 2012)


Phía trước cung vào chính tẩm có một bức võng bằng gỗ được chạm chỗ tinh sảo và sơn son thếp vàng, bức võng được gắn vào xà ngang và hai cột bằng lim. Phía dưới bức võng là một Tắc Tải bằng đá có cấu trúc giống ngai, phần sau Tắc Tải là một phiến đá hình cung cao (nếu đứng trước Tắc Tải nhìn vào chính tẩm thì hình cung đó che vừa khít cửa vòng cung vào chính tẩm). Trước tắc tải là một phiến đá hình chữ nhật (Kích thước khoảng 2m x 2,4m x 0,3m) giống một cái sạp để ngồi tế, lễ. Khoảng năm 1962 khi đó phong trào chống mê tín dị đoan phát triển mạnh; UBND xã chỉ đạo HTX nông nghiệp phá dỡ điện thờ hai bà lấy vật liệu đẻ xây dựng trường học và có ý định phá dỡ từ đường; Song con dâu trưởng dòng họ: Bà Hồ Thị Mai đã kiên trì bảo vệ nên chỉ phá toàn bộ Tắc Tải bằng đá để nung vôi. Hai bên cột lim treo hai câu đối bằng gỗ có nội dung là:              
                   "Lam động Hoàng Lê Phò ngọc bệ
                        Khai cơ Hữu dụ Vệ An Kim"
Sau này (Khoảng năm 1992) dưới sự điều hành của trưởng họ (sau này là hội đồng gia tộc), sự đồng lòng của con cháu, người góp công, góp sức, góp trí tuệ và cung tiến tiền để khôi phục lại tắc tải, bức võng, hai câu đối bằng gỗ (như trong ảnh)
Phía trên cửa vòng vào chính tẩm có bức đại tự hình lược bằng vôi, cát và vật liệu gì (không rõ) rất vững chắc, có hoa văn xung quanh ở giữa bức đại tự khắc 3 chữ nho dịch là: Lê Từ Đường; phía dưới bức đại tự đắp nổi hai phượng chầu cửa vào chính tẩm. Hai bên cửa vào chính tẩm có hai câu đối bằng vôi, cát và vật liệu gì (không rõ) rất vững chắc, hoa văn xung quanh có nội dung dịch là:
"Phật Sơn phản phất xu bồi hạ
Tiên lĩnh khương yêu vượng khí gian"
Cửa vào chính tẩm có hai cánh bằng gỗ lim, bản lề Xoay bằng đá; chỉ mở cửa trong những ngày đại lễ, ngày 01 và ngày rằm hàng tháng.


Phía trên xà ngang treo bức võng có bức đại tự bằng gỗ, ở giữa bức đại tự khắc 4 chữ được sơn son thếp vàng, dịch là "Khánh Nguyên Thuỳ Thế" có nghĩa lànguồn lớn lao, trải mãi các đời”.

Phía góc bên phải bức đại tự khắc hàng chữ nhỏ theo hàng dọc dịch là: "Thăng Long Xuân Nhâm Tý"  có ngĩa là mùa xuân năm Nhâm Tý (1612) từ Thăng Long Vua ban bức đại tự về cung tiến từ đường Họ Lê Hữu nhân dịp khánh thành.



Khoảng năm 1998; Điện thờ hai bà cô tổ được xây dựng lại tại vị trí mới (phía đông chính tẩm từ đường)
Khi từ đường được xây dựng mới vào năm 2017 thì hai bà cô tổ được thơ ở (Phía đông) cung trong từ đường .