- Phần 1: Bản dịch Gia phả gốc (tứ đại)
- Phần 2: Tân Gia phả (từ đời 17 trở đi )
Phần I: BẢN DỊCH GIA PHẢ HỌ LÊ HỮU
Bản dịch của
ông Lê Hữu Ngân dịch từ cuốn gia phả họ Lê Hữu
-----------
Người ta sinh ra phải có tổ và
phải biết tổ, ví như nước có nguồn, cây có gốc. Tục ngữ có câu rằng:
"Chim có tổ, người có
tông"
Nếu không biết tổ tông ra thế nào
thì cũng như: nước không có nguồn, chim không có tổ vậy.
Gia phả họ Lê Hữu chúng ta viết
bằng chữ Hán, có lai lịch rõ ràng. Bây giờ chữ Hán ít dùng, không mấy người
học, nếu không dịch ra quốc ngữ thời sau này không ai biết mà tìm ra sự tích
của tổ tiên nhà mình. Vậy tôi đem bản gia phả chính mà dịch ra quốc ngữ, để về
sau con cháu biết sự tích và húy kỵ của tổ tiên mà gìn giữ. Ai là con cháu, xin
sao mỗi nhà một bản mà xem, biết rõ sự tích họ nhà mình và lăng mộ của tổ tiên
cho khỏi thất lạc.
Thôn Vệ Yên
ta thời Lê Triều là Kiều Đại giáp, Vệ Yên giáp thuộc xã Bố Vệ. Lê Trung Hưng
thì thôn Vệ Đà được dòng họ Lê, Đàm, Đỗ, sang khai khẩn mới gọi là thôn Vệ Yên.
Đến Nguyễn Triều mới tháp thôn Vệ yên về huyện Quảng Xương, làng Kiều Đại ở
Đông Sơn. Năm 1948 tháp 11 thôn làm xã Quảng Thắng.
Đức Thủy ... tổ họ Lê ta tên ngài
là Lê Cư, tước ngài là Hoằng Quang Vương, Ngài là chú ruột của Vua Lê Anh Tông
(tục gọi là Vua chú Chổm), mà ngài là cháu thứ sáu đời đức thái tổ Lê Trừ, mà
đức Lê Trừ là anh ruột vua Thái tổ là Lê Lợi.
Đức Tằng tổ của ngài Lê Trừ là cụ
Lê Hối, người thôn Như áng thuộc phủ Thọ Xuân bây giờ. Khi ông Lê Lợi lên làm
vua, truy tôn ngài là Triệu Tổ Cao Hoàng Đế. Tính ngài ngay thẳng, chỉ đi dạy
học, lấy bà Nguyễn Thị Ngọc Duyên, thôn Quần Đội, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân),
truy tôn là Phổ Từ Hoàng Thái Hậu.
Khi thư thả ngài thường đi chơi ở
dưới núi Lam Sơn, thấy một chỗ có nhiều quạ đỗ, ví như là người tụ hội, ngài
biết là chỗ này đất tốt, liền đem nhà đến đó ở (có chỗ gọi là Du Sơn, cõ chỗ
gọi là Quế Lâm). Trong ba năm mà thành cơ nghiệp, là một ông quan lang khai
canh, lập ấp ở đó.
Ngài sinh ra ông Lê Đinh, truy
tôn là tuyên hổ phác Hoàng Đế. Ngài theo cơ nghiệp của cha mà làm, kẻ xa người
gần đều kính phục, đày tớ trong nhà đến một ngàn người. Ngài lấy bà Nguyễn Thị
Ngọc Quách thôn Xuân Lan, truy tôn là Chính Từ - Hoàng Thái Hậu. Sinh ra hai
con trai, con cả là ông Lê Tòng (không con) thứ hai là Lê Khoáng. Ông Lê Khoáng
tôn là Hiển Tổ Thạch Hoàng đế, bà vợ là Trịnh Thị Ngọc Thương, truy tôn Hiển Từ
Hoàng Thái Hậu. Ngài có lòng nhân từ, ai cũng yêu mến, bà thì siêng năng, càng
ngày càng giàu thêm.
Ngài sinh ba con trai, con cả là
ông Lê Học, mất sớm, truy tôn là Tuyên Hiếu Vương, bà vợ truy tôn là Thận Uy
Thái Phi, con trai là ông Lê Thạch theo đức Thái tổ đi khai quốc bị tên bắn lạc
mà mất, truy tôn Trung Dũng Vương.
Con thứ hai là ông Lê Trừ (Húy
Trà) phong tước là Hoằng Dụ vương Lam Quốc Công.
Con rốt là ông Lê Lợi (tức là vua
Lê Thái Tổ). Khi chưa sinh ông Lê Lợi thì trong làng có một con hổ đen đến ở,
hơn mười năm, không hại người, không hại vật, về sau người ta quen đi không sợ
nữa, đến khi sinh ông thì hổ ấy đi đâu mất.
Khi sinh ông thì trong nhà mùi
hương thơm nức, hào quang tỏa sáng ánh cả nhà, có bốn bà vú đến, tắm xong đặt
ngài lên giường thì bốn bà vú cũng đi
đâu mất.
Ông Lê Lợi là người anh tuấn, mắt
sáng như sao, miệng rộng, mũi to, người cao sáu thước, vai bên tả có bảy nốt
ruồi đen, tướng đi như long, như hổ, lông mao mọc khắp mình, tiếng như chuông
đồng, ngồi như hổ ngồi xổm, thấy tướng ai cũng bảo là người quý. Ngài rất thông
minh, khỏe mạnh, có mưu cơ, là một bậc phi thường.
Năm Nhâm Thân ngài 28 tuổi, ngày
mồng 10 tháng giêng, sai người nhà đi cày ở động Phật Hoàng lăng thuộc động
Chiêu Nghi. Người nhà thấy một vị lão tăng, mặc đồ trắng, ở địa phận làng ức
Trai đi đến, trông ngược, trông suôi rồi nói rằng: "Đất này tốt lắm, không có ai mà cho" người nhà nghe nói, chạy
về báo với ông. Ông liền tìm vị lão tăng ấy, đi đến thôn Quần Đội thấy có cái
thẻ bằng tre đề rằng: "Thiên đức thụ
mệnh, tái trung tứ thập, số chỉ dĩ đinh, tích tai vi cấp".
Ông thấy thế rất mừng, lại cố đi
mau cho kịp, lúc ấy có rồng vàng che cho, ông liền gặp lại vị lão tăng ấy. Cụ
bảo rằng: Tôi họ Trịnh hiệu là Bạch Thạch Sơn Băng, đi từ Ai Lao mà đến đây (ở
chùa Tích Sơn nước Ai Lao). Thấy ông khí tượng khác thường, sau này sẽ làm nên
cơ nghiệp lớn. Ông quỳ mà thưa rằng: Địa mạch của tôi, quý tiện thế nào xin tôn
sư chỉ giáo.
Vị lão tăng bảo rằng: Xứ Phật
Hoàng động Chiêu nghi có một chỗ ước nửa sào, hình như quả ấn vuông, tọa khôn,
hướng Cấn, bên tả có núi Thái Thất đến núi Linh Sơn, ở trong có gò Tiên Hạn,
lấy động Chiêu Nghi làm án, mặt trước có Long Sơn, trong có Long Hổ, đó là đất
Loa Trương (ruột con ốc). Bên hữu có hổ thủy chạy quanh, phía ngoài có núi
Xuyên Châu. Con trai thì quý khá không thể tả ra được, chỉ hiềm con gái thất
tiết, con cháu sau ở phân cư. Sau này gặp thầy giỏi cất lại, lại trung hưng năm
trăm năm nữa. (Chữ Hán viết là minh sư, không hiểu là thầy giỏi hay là quân nhà
Minh). Về sau quân nhà Minh đào lên lại lấy về chôn lại. Ông liền đem mộ đức
Hoàng Khảo táng vào đó. Đào sâu ba thước năm tấc thấy một pho tượng phật bằng
đồng nhỏ và một cái hộp con, đem về núi Du Sơn mà thờ. Khi về đến địa phận Đao
Xá thì sáng, lúc ấy mưa gió, sấm sét, trời đất tối tăm thì vị lão tăng đi đâu
không biết.
Ngày sáu tháng giêng năm Giáp
Ngọ, ông ba mươi tuổi, bà vợ là Trịnh Thị Ngọc Lữ ra vườn hái dâu, thấy có bốn
cái dấu chân dài ba thước, rộng hai thước, lại thấy một khối đồng đỏ, trên có
cột. Bà vợ gọị ông, ông chạy ra xem là bảo ấn, dài bảy tấc tám phân, rộng sáu
tấc, tám phân, lớn một tấc bốn phân. Có chữ Thuận Thiên và chữ Lê Lợi. Trên
lưng ấn có câu thần chú rằng :"Thượng
đế sắc lệnh, bảo ấn thiên đình, giám chi nam việt, hách hách uy linh, chủ thiên
sơn nhạc, khâm thụ lạnh hành, cấp cấp như luật linh". Ông biết là trời
cho mình liền giấu đi, không cho ai biết.
Năm ất Mùi ông ba mươi mốt tuổi,
đêm mồng mười tháng chạp, người làng Cổ Lôi Nguyệt Sơn là ông Lê Thận, đi đánh
cá ở vực Lam Sơn, thấy dưới nước có hào quang bay lên trời. Đánh cả đêm không
được con gì, chỉ được một thanh sắt hình như lưỡi kiếm, dài ba thước, rộng hai
tấc, dày ba phân, có linh phù và thần chú rằng: "Thượng đế sắc lệnh, bảo ấn uy quyền, cử chỉ nhất động, hỏa chiếu vạn
phương, sơn băng địa liệt, tặc phá thần tàng, cấp cấp như luật linh"
ông Thận đem về quẳng vào xó nhà, rồi không để ý đến nữa.
Ông với ông Thận có tình bè bạn,
nhân nhà ông Thận có kỵ, mời ông sang ăn kỵ, trong chỗ tối ông thấy có hào quang
hiện ra, ông đến xem thấy thanh sắt ấy. Ông xin, ông Thận cho ngay, đem về nhà
mài sáng, mới thấy có chữ Thuận Thiên, chữ Lê Lợi và linh phù, thần chú.
Năm Bính Thân ông ba mươi hai
tuổi, ngày mười lăm tháng giêng, ông đi ra ngõ, thấy một cái cán kiếm bằng đồng
đen, dài ba tấc, tròn ba tấc năm phân, đã mài dũa thành cái cán kiếm rồi, ông
cầm lấy ngửa mặt lên trời mà khấn rằng: Nay người Tàu chiếm đất Việt, dân sinh
cơ khổ, nếu trời cho tôi cứu vớt dân sinh, thì lưỡi kiếm kia với cái cán này
liền nhau như một. Khấn xong ông về lấy lưỡi kiếm cắm vào cán, thời hai bên vừa
khít nhau như là của một người làm ra, không kéo ra được nữa. Ban đêm có ánh
sáng phát ra như bó đóm, ông biết là Thần Kiếm.
Hồi trước, Hồ Quý Ly cướp ngôi
nhà Trần, thường bỏ thiếu triều cống nhà Minh. Năm Bính Tuất nhà Minh sai
Trương Phụ Mộc Thạnh đem quân sang chiếm nước Nam, bắt cha con Hồ về Bắc Kinh,
cho Lý Bân ở lại trấn ải nước Nam.
Gặp thời loạn ông ẩn nấp chốn Sơn
Lâm luyện tập thao lược, chiêu đãi chí sĩ, chiêu tập lưu dân. Lúc ấy có người ở
thôn Hào Lương là ông Đỗ Phú cùng ông có sự hiềm khích, kiện đến tướng nhà
Minh, khám sét ra thì lý của ông phải, ông được kiện, ông Phú vì đó lại hiềm
oán thêm, báo quân nhà Minh về bắt ông. Ông cùng ông Lê Liễn chạy đến bờ sông
Khả Lam giang, thấy một thi hài đàn bà chết, mặc áo trắng, đeo xuyến vàng, ông
cùng ông Liễn chôn đi và khấn rằng: "Cứu
tôi thoát khỏi nạn này, sau lấy được thiên hạ sẽ lập miếu thờ". Đắp mộ
vừa xong thì quân giặc đến, một đàn chó ngao đuổi đến. Ông cùng ông Liễn chạy không
kịp, chui vào thân cây rỗng. Giặc cầm mác đâm vào trúng chân ông Liễn, ông Liễn
lấy áo chùi lưỡi mác, khiến cho giặc không thấy dấu máu. Trong cây rỗng liền có
một con cáo trắng nhảy ra chạy vào rừng, đàn chó ngao đuổi theo, giặc cũng đi
theo đàn chó, ông thoát nạn. Sau phong bà Bạch Y là :"Hoàng Hựu Đại Nương".
Cây rỗng phong là "Hộ Quốc Đại Vương".
Lúc ông khởi nghĩa binh ở Lam
Sơn, có người nước Ai Lao là ông Trịnh Đồ đem bốn con voi và một lá cờ vàng đến
rước ông. Voi phấn đỏ hoa trắng gọi là: "Phi thiên tượng". Sau phong cho ông là "Đồ Tước Thái Bảo Dũng quận công" .
Ông Đồ giúp ông thành công rồi cả người và voi đi đến núi Yên Tử thì bay đi
mất, bèn làm chùa thờ ở đó, gọi là "Thiên
Nhật Tự".
Ông khởi nghĩa binh ở Lam Sơn vào
ngày tháng giêng năm Mậu Tuất. Năm ấy ông ba mươi tư tuổi. Ngày mười sáu tháng
giêng có thằng Ai ở làng Nguyệt ấn cùng ông Đỗ Phú dẫn quân giặc về đào mả ông
thân của ông ở Động Chiêu Nghi, lấy quan tài buộc vào thuyền, đem về để dụ ông
về hàng. Ông sai ông Trịnh Khả, ông Lê Bí đi thuyền thúng theo đến sông Đao xá,
nhân lúc giặc ngủ, lấy trộm đem về táng vào chỗ cũ. Thằng Ai lại dẫn quân giặc
tập công ông, bắt được nhiều gia hạ. Lúc ấy quân ông không có chí chiến đấu,
chỉ có bọn ông Lê Lễ, Lê Bí, Lê Xí, Lê Đạt đi theo ông đến núi Linh Sơn, hết
lương hai tháng, đợi cho giặc lui mới về Lam Sơn đắp hào lũy, chiêu tập tàn
quân, lúc ấy thế giặc đang mạnh, ông chiêu tập tướng sĩ lại, khiến ai thay mình
nạp cho giặc, để làm cách hoãn binh. Chủ tướng không ai dám nhận, có ông Lê Lai
tình nguyện thay ông, liền mặc áo của ông chạy vào vị trí quân giặc, tự xưng là
Lam Sơn động chúa. Giặc bắt ông Lai giết đi. Từ đó giặc không để ý đến, ông Lợi
mới giữ được Lam Sơn, càng ngày càng mạnh thêm. Trong mười năm đánh hơn bảy
mươi trận.
Năm Đinh Mùi, Yên Viễn Hầu nhà
Minh là Liễu Thăng đem bảy vạn hùng binh sang cứu bọn Lý Bân, ông đánh, giết
Liễu Thăng ở núi Mã Yên Sơn, bình được giặc Ngô, yên được nước Việt.
Năm Mậu Thân phong công thần hơn
hai trăm người.
Hạng
nhất là bọn ông Lê Vấn năm mươi hai người
Hạng
nhì là bọn ông Lê Bổ bảy mươi hai người
Hạng
ba là bọn ông Lê Lễ chín mươi tư người
Ngày mười
bốn tháng tư năm Mậu Thân (1428) vào giờ Tý ngài lên ngôi vua ở Thăng Long, tự
xưng là Tuệ Văn Anh Vũ Đại Vương, hiệu là Lam Sơn Động Chúa, nhất thống thiên
hạ. Định ra luật lệnh chế lễ nhạc, khoa mục, cấm vệ, quan chức, phủ huyện...
Đáng là một vị vua minh quân; có Ai Lao và Chiên Thành - năm nước triều cống.
Năm Tân Hợi vua nhà Minh phong
cho ngài quyền thụ An Nam Quốc Sư (trong quốc sử chép là An nam Quốc Vương) từ
năm ấy về sau triều cống luôn ...
Ngày hai hai tháng tám năm Quý
Sửu (22/8/1433) ngài mất ở chính diện Đông Kinh, ngài làm vua sáu năm, thọ bốn
chín tuổi, con là vua Thái Tôn lên ngôi, truyền đến Lê Cung Hoàng thì nghịch
thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi, thông trình mười đời vua được một trăm mười lăm
năm.
Năm Nhâm Thìn 1532 ông Nguyễn Kim
rước ông Ninh con của vua Chiêu Tôn lên làm vua, hiệu là Trang Tôn truyền đến
vua Trung Tôn. Vua Trung Tôn mất, không có con nối ngôi.
Quan thượng thư họ Nguyễn ở làng
Thịnh mỹ, đêm nằm mộng thấy vua vào nhà. Ngày mai quả thấy một người vào nhà
xin lửa, y như là ban đêm thấy trong mộng. Hỏi mãi mới biết ông là Lê Duy Bang,
cháu thứ bảy đời ông Lê Trừ (anh ruột vua Thái Tổ). Khi vua Trung Tôn mất, ông
bàn với Trịnh Kiểm rước lên làm vua hiệu là Anh Tôn Tuấn Hoàng Đế.
Ngài là con
ông Lê Cơ, cháu ông Lê Trầm, chắt ông Lê thiện. Ông Lê Thiện nhân gặp loạn nhà
Mạc, cùng cháu ông Đỗ Đại (Đinh Quốc Công) là ông Đỗ án, trốn về giáp Vệ Yên,
xã Bố Vệ huyện Đông Sơn. Sinh ra ông Trầm, ông Trầm sinh ra sáu (6) người con
trai, gặp lúc đói chết đi chỉ còn hai người là ông Lê Cơ, Lê Cư. Ông Lê Cơ lấy
bà Trần Thị Phác, rời sang ở giáp Kiều Đại rồi sinh ra ngài. Ngài nhà nghèo,
thường đi hái củi, đánh cá để nuôi mẹ (cha chết).
Năm ngài ba mươi mốt tuổi, lên
rừng hái củi, rồi chở thuê cho người ta. Về đến địa phận làng Thịnh Mỹ bị mưa
to, gió lớn, phải cắm bè ở đó. Làng ấy có quan thượng thư họ Nguyễn đã về hưu
trí, đêm ấy nằm mộng thấy có người bảo rằng: "Mai có thiên tử đến nhà, ngài đội nón sắt, ngự cối say, nên nghênh tiếp
cho long trọng". Sáng mai có người hàng bè vào nhà xin lửa. Trời mưa
không có nón, lấy cái chảo bằng gang mà đội, có mấy con chó chạy ra cắn, ngài
sợ, nhảy lên cái cối xay lúa mà ngồi. Lúc ấy quan thượng thư mới hiểu là: Ngự
cối xay, đội nón sắt.
Quan Thượng thư hỏi lai lịch và
chỗ ở, rồi ngài tra xét, dò thám mãi mới biết là nòi giống của cụ Lê Trừ. Khi
ngài ba mươi sáu tuổi, vua Trung Tôn mất, không có con trai nối ngôi. Ông bàn
với chúa Trịnh Kiểm rước về làm con cháu lâu dài.
Ông Lê Cư là em ruột ông Lê Cơ,
chú ruột vua Anh Tôn, là cháu thứ sáu đời ông Lê Trừ, mà ông Lê Trừ là anh ruột
vua Thái Tổ, ngài cũng có công khai quốc, phong Lam Quốc Công, khi mất truy tôn
Hoằng Dụ Vương, có lập Hoằng kính điện ở thôn Thái Lai, đồng thôn phụng sự. Bà
vợ Lê Thị Ngọc Lăng, người thôn Thái Lai, truy tôn Trinh Cẩn Thái Phi.
Ngài sinh ra ông Lê Khôi - Con
cả, gia phong Chiêu Trung Vương, tặng phong Võ Mạc Hầu, con cháu ở xã Ngọc Chuế
phủ Hoằng Hóa.
Con thứ hai là ông Lê Khang, tặng
phong là Quỳ Quốc công, truy tôn Hiển Công Vương, vợ là Lê Thị Ngọc ái, truy
tôn Đoan úy Thái Phi. Ngài sinh ra ông Lê Khanh, truy tôn là là Quang Nghiệp
Vương, vợ là Lê Thị Ngọc Đoan, truy tôn là Đoan Thuận Thái Phi. Ngài sinh ra
ông Lê Thiện, truy tôn là Trang Giãn Vương, vợ là Lê Thị Ngọc Tuệ, truy tôn là
Tuy Lý Thái Phi. Ngài sinh ra ông Lê Trầm - có chỗ viết là Lê Qương, ở trong sử
lại viết là Lê Tiên, phong Đông Lâu Bá, sau truy tôn Hiển Tôn Nhân Hoàng Đế, vợ
là Phạm Thị Ngọc Lân, truy tôn Từ Khâm Hoàng Thái Hậu. Ngài sinh ra sáu (6)
người con trai, gặp lúc loạn lạc, đói khổ chỉ còn hai (2) người là ông Lê Cơ và
ông Lê Cư.
Ông Lê Cơ lấy bà Trần Thị Phác,
giáp Kiều Đại và sang ở giáp Kiều Đại, sinh ra ông Lê Duy Bang - vua Anh
Tôn.
Ông Lê Cư ở nguyên giáp Vệ Yên,
sinh ra ông Lê Lân. Khi vua Anh Tôn lên ngôi phong cho chú tước Hoằng Quang
Vương, em là Lê Lân- Minh Mẫm Vương - mộ hai ông ở Cồn ổi.
Ông Lê Lân sinh ra ông Lê Đạt,
làm quan Tư Mã Tham Chính tỉnh Nghệ An, vợ là Trịnh Quý Thị hiệu Từ Hoan. Đến
đời vua Lê Kính Tông niên hiệu Hoằng Định 1601 - 1619, ban cho ông Lê Đạt bảo
quản giáp Vệ Yên.
Đến năm Canh Ngọ, ông cùng ông họ
Đàm, họ Đỗ sang ở đất Đà Yên - Vệ Đà mà khai khẩn đất ấy. Từ đó con cháu ba họ
càng ngày càng nhiều.
Bản dịch và
sao chép lại đến đây thì dừng lại. Phần tiếp là húy kỵ - tôi không hiểu lắm, vì
cơ bản mới của cành một và cũng thiếu, vậy tôi dừng chép. Tôi nghĩ con cháu nhớ
và biết đến cụ Tứ đại đã tốt lắm rồi. Còn lại xin mời các cụ về Từ đường - Họ -
Họ sẽ phụng thờ.
Sao chép y bản gốc. Viết rõ ràng
dễ xem mong được nhiều người xem. Người xem là người uống nước để nhớ về
nguồn./.
Người
sao chép Lê Hữu lâm
Đời
hai mươi - Cành nhì
Thôn
Vệ Yên
PHẦN II:
TÂN GIA PHẢ (từ đời thứ 17)
Tân Gia phả họ Lê Hữu hiện tại mới có:
- Phả đồ 12 đời (treo tại nhà thờ họ Lê Hữu)
- Gia phả từ đời thứ 17/18 trở đi
Do gia phả mới được thống kê lại từ năm 2001-2008 Do Ông Lê Hữu Công và Ông Lê Hữu Lâm (Hậu duệ đời thứ 20-họ Lê Hữu) ghi chép lại (một phần dựa vào cuốn gia phả gốc và 1 phần dựa vào lời kể của các cụ cao niên đời thứ 19, 20) nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp, bổ sung của con cháu trong dòng họ.
* PHẢ ĐỔ 12 ĐỜI HỌ LÊ HỮU
(tư liệu được chụp tại nhà thờ họ Lê Hữu)
* GIA PHẢ CÀNH NHẤT
1. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ CẦN
Đời 18: Chi nhánh cụ Lê Cần Cành nhất




Đời 19: Lê Vơng Lê Ong Lê Dập Lê Dềnh
(Vô tự)
Đời 20: Dũng
Dung Giống Lê Ngân Lê Được
(Vô tự ) (Vô tự) (Vô tự)
Đời 18: Cụ Lê Cần, kỵ 6 -9, mộ ở Bãi Xển - Yên Viên. Cụ bà huý là
Bơi, kỵ 11- 2 mộ ở đồng Sốc. Hai cụ có 4 người con trai là Vơng, Ong, Dập, Dềnh
và 2 người con gái là Bồi, Bọng (Bọng chết trẻ).
Đời 19: Cụ Lê Vơng, kỵ 14 - 8, cụ Bà kỵ 04 - 11, 2 mộ ở mã xã, hai
cụ có 3 con trai: Dung, Giống đều vô tự, 4 con gái Ngai, Vực, Ngờ, Cẩn. Riêng
Cụ Dũng có con trai là Cận, mẹ con đem nhau đi biệt tích nên trong gia phả cũng
ghi là vô tự. Kỵ 28 - 10, mộ ở mã xã.
Đời 19: Cụ Lê Ong, kỵ 26 - 01 mộ ở Cồn ổi. Cụ bà Đỗ Thị Ngăn, kỵ 17
- 12, mộ Mã Xã. Khi cụ ông mất cụ bà mới 24
tuổi ở vậy nuôi con, cho nên họ Mạc rất quý trọng. Hai cụ có 1 một người
con trai duy nhất là Lê Hữu Ngân.
Đời 19: Cụ Lê Dềnh. Có 1 người con trai là Lê Được.
Đời 20: Lê Hữu Ngân, kỵ 20 -6 - 1957, mộ ở Mã Xã. Trước năm 1945
ông làm việc ở phủ Quảng Xương, phủ Như Xuân, sau đó về sống ở Thôn Vệ Yên. Về
làng ông được bầu làm Lý trưởng. Trước chính sách thuộc địa của Pháp, với lòng
thương dân, (Người làng, người họ) 3 tháng sau khi bầu Lý trưởng, ông đã làm
đơn xin nghỉ. Ông có 4 người vợ:
* Bà cả Lê Thị Cạp: Dòng họ Lê
Đình, kỵ 14 - 2, mộ ở Cồn Sốc, bà có 2 con gái là Lê Thị Đơi, Lê Thị Đây.
* Bà hai Đỗ Thị Điền: Kỵ 5 - 5, mộ
ở Mã Xã, cụ là người Mâu Xá, xã Đông Minh, sinh ra Lê Hữu Tờn.
* Bà ba không nhớ tên lấy ông Ngân,
sinh 8 lần đều không nuôi được, bà tự nguyện xin về quê ở Quảng Giao, Quảng
Xương. Sau này bà đi bước nữa và sinh được 1 người con gái.
* Bà tư Hồ Thị Mai: Người Quỳnh Đôi
- Quỳnh Lưu - Nghệ An. Cụ thân sinh ra bà Mai làm nghề bốc thuốc ở làng Vệ Yên,
nên đã gả bà Mai cho ông Ngân. Bà Mai sinh được 2 con gái và 3 con trai: Lê Thị
Lý, Lê Thị Lài (Chết trẻ), Lê Hữu Tài (Liệt sỹ), Lê Hữu Lộc, Lê Hữu Quang.
Đời 20: Lê Hữu Được, kỵ 11- 1 - 1986. Bà là Phạm Thị Dăn người cùng
làng. Ông bà có 4 con: Lê Thị Thược, Lê Thị Thảo, Lê Hữu Toàn (Liệt sỹ), Lê Hữu
Thắm.
Đời 21: Lê Thị Đơi, lấy chồng người cùng làng là Trần Văn Am, có 1
con gái.
Đời 21: Lê Thị Đây, lấy chồng cùng làng là Đỗ Khắc Thờn có 5 con
trai, 2 con gái.
Đời 21: Lê Hữu Tờn: Sinh năm 1941, đi công nhân mỏ Crom Cổ Định, đi
bộ đội Chống Mỹ cứu nước năm 1967, đến năm 1974 chuyển ngành về mỏ Crom, sau đó
chuyển lên mở Thiếc Sơn Dương, Tuyên Quang. Vợ là Nguyễn Thị Tâm, người vùng
Đồng Bằng Bắc Bộ, định cư và làm công nhân ở mỏ Thiếc Sơn Dương. Có 3 con trai:
Lê Tuấn, Lê Quý, Lê Quân. Cả gia đình hiện sống ở Tuyên Quang.
Đời 21: Lê Thị Lý lấy Nguyễn Công Ba, người làng Bố Vệ, đi bộ đội
đánh Mỹ về hưu với cấp hàm Thượng Uý, có 3 con gái và 1 con trai là Nguyễn Thế
Anh
Đời 21: Lê Hữu Tài đi bộ đội
đánh Mỹ năm 1966 hy sinh ngày 31/7/1968 ở chiến trường Tây Ninh. Năm ấy là năm
Mậu Thân nhuận 2 tháng 7. Ngày 31/7 dương là ngày 7/7 đầu của năm Nhuận Mậu
Thân.
Đời 21: Lê Hữu Lộc. Công nhân của Xí nghiệp thiết bị Trường học
thuộc Sở giáo dục Thanh Hoá, đi bộ đội năm 1965, tham gia quân tình nguyện
chiến đấu ở chiến trường Campuchia, được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam ở
vùng 4 Hải quân. Năm 1981 chuyển ngành về Xí nghiệp thiết bị trường học của Sở
giáo dục Thanh Hoá. Sau gần 7 năm công tác trong quân đội, ở vùng 4 Hải quân,
chủ yếu sống ở Cam Ranh thuộc lực lượng thuỷ quân đánh bộ, địa bàn chiến đấu
vùng ven biển Campuchia - toàn những nơi nguồn nước độc hại nên Lê Hữu Lộc đã
bị dầm bệnh nặng. Trở về cơ quan cũ trong nền kinh tế bao cấp, hoàn cảnh gia
đình khó khăn, kinh tế eo hẹp, bệnh trọng trỗi lên cướp đi sinh mạng sống của
anh ngày 26/3/1994. Vợ là Lê Thị Chanh dòng họ Lê Đình người cùng làng làm
ruộng có 2 con Lê Hữu Văn, Lê Thị Duyên.
Đời 21: Lê Hữu Quang - 1957 Đảng viên ĐCSVN tốt nghiệp Cao đẳng sư
phạm Thanh Hoá năm 1981. Năm 1982 làm Hiệu trưởng Trường THCS Thanh Quân Như
Xuân. Năm 1990 tốt nghiệp khoa toán Trường Đại học Sư phạm 1 Hà Nội; Năm 1996
hiệu trưởng trường THCS Nguyễn Du - Quảng Xương. Năm 2005 học Cao học chuyên
ngành quản lý giáo dục. Vợ là Lê Thị Lợi - 1961 dòng họ Lê Đình, đảng viên Đảng
cộng sản Việt Nam, năm 1986 tốt nghiệp sư phạm 12 + 2. Năm 2005 tốt nghiệp
Đại học sư phạm Vinh, có 2 con là: Lê Mỹ
Trang và Lê Hoàng Tùng.
Đời 21: Lê Thị Thược - 1955, chồng là Nguyễn Văn Sang, người làng
Mật, Đông Vệ, làm ruộng, có 3 con trai, 1 con gái.
Đời 21: Lê Hữu Toàn - 1957, đi bộ đội 1977, hy sinh ở chiến trường
Biên giới Tây Nam năm 1978.
Đời 21: Lê Thị Thảo - 1960: Làm ruộng, chồng là Phạm Tiến Dũng,
người làng Mật, Đông Vệ, công nhân nhà máy cưa về chế độ một lần, có 2 con
trai.
Đời 21: Lê Hữu Thắm - 1963: Làm ruộng, vợ là Lê Thị Yến dòng họ Lê
Đình, làm ruộng ở quê, có 2 con gái: Lê Thị Hoa, Lê Thị Lan.
2. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ NHỚI VÀ LÊ ĐỚI - cành nhất
Đời 17: Chi nhánh cụ Lê Kiên Cành nhất
Đời 17: Chi nhánh cụ Lê Kiên Cành nhất



![]() |








Đời 20: Dụ
Duệ Giất Liễn Diễn Câu Đặng
Cường
(Chết bệnh) (Vô tự) (Chết trẻ)
Đời 17: Ngày xưa gia
phả chỉ ghi con trai, không ghi ngày sinh tuổi thọ; thường lấy tên con trai cả
gọi thay tên bố mẹ. Ví dụ: Cụ Mốc khi đi công tác đổi tên là Kiên, dân làng gọi
bố là ông Kiên, gọi ông là cụ Kiên; vì vậy đời 17 có Cụ Kiên, đời 19 có Lê
Kiên. ở chi nhánh này phân tích chủ yếu 2 người là cụ Nhới và cụ Đới.
Đời 18: Cụ Lê Nhới
trong gia phả cành nhất còn gọi là Lê Hữu Tĩnh, huý là Luyến, kỵ 29 - 4, mộ ở Mã xã. Cụ bà là Đàm Thị Xuyên người cùng
làng, kỵ 8 - 8 mộ cũng ở Mã xã, 2 cụ có
5 con trai là: Lê Mốc (Lê Kiên), Lê Meo (Lê Giới), Lê Rêu, Lê Quẹn và Lê Chiềng
(Chết trẻ), 2 con gái là Lê Thị Vó, Lê Thị Coọng.
Đời 18:
Cụ Lê Đới kỵ 30 - 10, cụ bà là Trần Thị Mai kỵ 2 - 3. Các cụ có 2 người con
trai là Lê Đoái và Lê Khiến. Cụ Lê Đoái đi phu đồn điền cho Pháp ở Tây Nguyên,
không về trong gia phả ghi vô tự.
Đời 19: Lê Mốc (Lê Kiên) đi lính tinh binh làm chức chánh đội.
Trong cuộc khởi nghĩa chống Pháp bị thất bại cụ đã tự tiết ngày 18 - 8.
Đời 19: Lê Meo (Lê Hữu
Giới) đi lính tinh binh 3 năm làm chức chánh đội, sau đó về làm công sở Bưu
điện Quảng Nam, 25 năm trước cách mạng tháng 8. Khi cách mạng tháng 8 thành
công cụ về làm ở Bưu điện Thanh Hoá. Kỵ 15 - 4. Cụ bà Nguyễn Thị Bân làm ruộng
có 3 con trai, 2 con gái: Lê Thị Hiểu, Lê Dụ, Lê Duệ, Lê Giất và Lê Thị Liên -
Lê Thị Liên chết trẻ.
Đời 19: Lê Hữu Rêu
không có con trai, ghi là vô tự kỵ 20 - 8
Đời 19: Lê Thị Vó lấy
chồng làng dòng họ Phạm, con trai là Phạm Văn Kênh.
Đời 19: Lê Hữu Quẹn có
2 vợ: Bà cả là: Lê Thị Nghe, dòng họ Lê Viết, có con trai là Lê Liễn và 3 người
con gái là Hộ, Hạng, Hệnh.
Ông Liễn đi bộ đội
chống Pháp là cán bộ quân giới phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, bị ốm
về bệnh viện vùng tự do ở Thanh Hoá,
điều trị và chết ở đó.
Bà hai là Phan Thị En
- Người Nghệ An sinh ra ông Lê Diễn.
Đời 19: Lê Thị Coọng lấy chồng làng họ Lê Đình, sinh 2 con gái:
Chuộng, Luộng.
Đời 19: Lê Khiến kỵ 18
- 4, cụ bà là Đỗ Thị Bòng kỵ 12 - 6. Hai cụ có 3 con trai và 1 con gái: Lê Thị
Với, Lê Câu, Lê Đặng, Lê Cường, Lê Thị Bế ông Lê Cường chết trẻ trước năm 1945.
Bà Bế đi thanh niên xung hy sinh 1966, mất hết giấy tờ nên chẳng được chế độ gì. Bà Với lấy chồng làng họ Lê Viết có 01 con
trai, 07 con gái.
Đời 20: Bà Lê Thị Hiểu
sinh năm 1927 trong 1 gia đình công chức của chế độ cũ, có nền kinh tế khá giả
ở trong làng, nên bà được bố mẹ cho đi học, có học vấn khá. Khi cách mạng tháng
8 thành công bà tham gia liên hiệp Phụ nữ huyện Quảng Xương. Năm 1946 bà bị
chết vì bệnh dịch tả.
Đời 20:
Ông Lê Dụ sinh năm 1932, kỹ sư - Phó Giám đốc Bưu điệnThanh Hoá - Đảng viên
Đảng cộng sản Việt Nam, đã nghỉ hưu. Bà là Đỗ Thị Ân, sinh năm 1936. Ông bà có
1 con gái là Lê Thị Anh và 4 con trai: Tuấn, Nguyên, Hùng, Mạnh.
* Lê Thị Anh - 1959: Saukhi tốt nghiệp
khoá Trung cấp Bưu điện truyền thanh về Bưu điện Thanh Hoá làm việc và là đảng viên - Đảng CSVN. Chồng là Nguyễn
Thanh Phong, quê ở Quảng Chính - Quảng Xương cũng là cán bộ Bưu điện có nhiều
năm và nhiều lần đi tu nghiệp ở nước ngoài về chuyên môn. Có 2 con trai.
* Lê Tuấn -
19...... : Cán bộ kỹ thuật Bưu điện Tỉnh Thanh Hoá. Vợ tên là Hà, quê ở Quảng
Xương, giáo viên Tiểu học, có 1 con trai và 1 con gái.
* Lê Nguyên -19 .... : Công nhân kỹ
thuật bưu điện Hà Nội, chết năm 2007, vợ Dương Thị Nga, công nhân Công ty xăng
dầu khí ga Thanh Hoá, có 2 con gái.
* Lê Hùng - 19
...... : Lái xe ở làng. Vợ tên là Dung làm ruộng, 2 con trai.
* Lê Mạnh - 19 ..... : Công nhân kỹ
thuật Bưu điện Hà Nội, vợ là Nguyễn Thị Thành, giáo viên THCS ở Hà Nội.
Đời 20: Lê Trung Duệ -1935: Cử nhân sư phạm Vinh
- Hiệu Trưởng trường Cấp 2 Hậu Lộc,
chuyên viên của Sở Giáo dục Thanh Hoá về hưu, Bà là Trần Thị Lới - 1935 làm
ruộng ở quê, có 3 con trai, 2 con gái.
* Lê Dũng -1961: Công nhân lái máy kéo
về chế độ 1 lần. Vợ Đỗ Thị Hương - 1961, công nhân cơ điện, 1 con trai, 1 con
gái.
* Lê Thị Dung - 1963:
Cán bộ kỹ thuật bưu điện Thanh Hoá - đảng viên ĐCSVN. Chồng Nguyễn Văn Thái
1956 - đồng nghiệp, 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Tùng - 1967: Trưởng Trạm viễn thông
Như Thanh. Vợ là Lê Thị Vinh, quê ở Như
Thanh, lao động tự do, 1 trai, 1 gái.
* Lê Thị Xuyến -1971: Công nhân kỹ thuật
Bưu điện Thanh Hoá. Chồng là Lê Ngọc Sáu -1963, quê Thiệu Giang, Thiệu Hoá, cử
nhân ngành Bưu chính viễn thông, đảng viên ĐCSVN.
* Lê Tiến -1976: Kỹ
sư, cán bộ tổng đài Bưu chính viễn thông Bỉm Sơn.
Đời 20: Ông Lê Giất
-1937: Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, kỹ sư -Phó giám đốc Trung tâm bưu chính viễn thông khu vực Miền Bắc, Uỷ viên
Thường trực, Ban thông tin Miền núi, Biên giới Hải đảo của Tổng Công ty Bưu
điện Việt Nam - về hưu. Bà là Đỗ Thị Bích Hồng, có 2 con trai Lê Hiệp, Lê Hoà,
1 con gái Lê Thị Hồng Hạnh.
* Lê Quang Hoà -19 .... : Trung tâm viễn
thông 1 Hà Nội, vợ là VũThị Bình - 19 ..... : Cử nhân giáo viên ngoại ngữ, có 1
con trai.
* Lê Quang Hiệp -19 ..... : Đảng viên
ĐCSVN, Kỹ sư, Bưu điện Hà Nội. Vợ Nguyễn Thị Hiền -19 .... : Kỹ sư Bưu điện Hà
Nội.
* Lê Thị Hồng Hạnh -19 .... : Kỹ sư kinh
tế, thạc sỹ Ngoại ngữ. Chồng là Hoà - 19 ..... : Kỹ sư cơ khí Hà Nội.
Đời 20: Lê Diễn -
1935: Đảng viên ĐCSVN trong kháng chiến chống Pháp ông làm văn thư cho Huyện uỷ
- huyện Quảng Xương. Trong kháng chiến chống Mỹ ông đảm đương nhiều chức danh ở
xã và cuối cùng là Chủ tịch UBND xã Quảng Thắng, kỵ ngày 20 -6 -1986. Bà là
Nguyễn Thị Nhâm, người cùng làng làm ruộng, có 3 con trai và 2 con gái.
* Lê Hữu Trường Thành -1955: Làm ruộng ở
quê. Vợ là Nguyễn Thị Sửu, người Quảng Minh - Quảng Xương, con là Lê Thị Xuân,
Lê Đức Quang, Lê Đức Lực, Lê Thị Hương.
-
Lê Thị Xuân có chồng là Nguyễn Ngọc Hùng - có 2 con trai.
* Lê Hữu Chung -1958: Nhập ngũ vào quân
đội năm 1978, hy sinh ngày 03/01/1979 ở
Chiến trường Cam - Pu - Chia.
* Lê Thị Liên - 1960: Trung cấp Bưu điện
Công tác ở Bưu điện Triệu Sơn. Chồng là Liêm, quê ở Triệu Sơn đi bộ đội chiến
đấu ở chiến trường Cam - Pu - Chia. Sauđó phục viên về làm ruộng ở quê, có 2
con trai.
* Lê Hữu Minh - 1967: Vợ là Đỗ Thị
Chanh, làm ruộng ở quê, có 2 con: Lê Thanh, Lê Thị Tâm.
* Lê Thị Vinh - 1969: Chồng là Lê Đình
Hùng làm ruộng ở quê, con là Lê Đình Tuấn, Lê Đình Tú.
Đời 20: Ông Lê Câu -
kỵ 19 - 10 - 2002, Bà là Phạm Thị Viết, ông bà chỉ có 1 người con gái duy nhất
là Lê Thị Trung, lấy chồng dòng họ Phạm.
Đời 20: Lê Hữu Đặng
-1934: Đi bộ đội, chuyển ngành về Công ty lâm sản Thanh Hoá là Phó phòng tổ
chức, về hưu. Bà là Đỗ Thị Vuông -1935 làm ruộng ở quê. Ông bà có 9 con: 6
trai, 3 gái.
* Lê Thị Lan - 1956: Đi bộ đội sau chiến tranh, được kết
nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam, phục viên về quê làm ruộng. Năm 2004 là Bí thư
chi bộ có 2 con trai, 1 con gái. Chồng là Lương Văn Nhiên, quê ở Hoàng Hoá,
định cư ở Vệ Yên, làm ruộng.
* Lê Thị Thuý -1959: Lấy chồng là Nguyễn Văn Tuyến ở làng Yên
Biên, có 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Thị Hà - 1961: Công tác ở Công ty Môi trường Thị xã Sầm Sơn,
chồng là Trương Văn Vang - Chánh văn phòng Thị uỷ Sầm Sơn. Có 2 con trai, 1 con
gái.
* Lê Thế Hải - 1965: Vợ là Phạm Thị
Xuân, người xóm Bắc đi vùng kinh tế mới EAKA Buôn Ma Thuật - 4 con gái.
* Lê Duy Hưng - 1969:
Là anh sinh đôi của Lê Thanh Nam. Năm 2004 là Phó Công an xã, vợ là Phạm Thị
Xuân làm ruộng, 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Thanh Nam: Em sinh đôi của Lê Duy
Hưng - 1969. Vợ là Trần Thị Yên làm ruộng, có 3 con gái.
* Lê Tuấn Đạt - 1971: Vợ là Phạm Thị
Thắng - có 1 con.
* Lê AnhTuấn -1975: Vợ là Phạm Thị Thanh
Hà, quê ở Phường Trường Thi, có 1 con trai.
* Lê Thanh Phong - 1978.
Đời 16: Chi nhánh cụ lê Bề cành nhất

Đời
17: Lê Phượng Lê Dực




Vô tự
Đời
19: Thủ Khôi Trọng thúc Hiến
Đời
20: Lê Hồ
3. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ BỀ - Cành nhất

Đời 16: Chi nhánh cụ lê Bề cành nhất


![]() |
Đời 18: Lê Tiên Lê Tiến lê
ca






Vô tự Vô tự Vô
tự Vô tự

Đời 21: Lê Đông
* GIA PHẢ CÀNH NHÌ

Đời 17: Chi nhánh cụ Lê Trạng Cành Nhì
Đời 18: Lê mãn



Đời 20: Lê
Huân Lê Huấn Lê Xuân Lê
Liên Lê Hằng Lê Hạnh
Đời 18: Lê Mẫn, kỵ 21 - 9. Cụ bà Lê Thị Bình, kỵ 16 - 9, người làng
Ngọc Mai, xã Quảng Thành. Hai cụ có 4 người con:
Lê Thị Thờng:
Lê Luân
Lê Trạng
Lê Thị
Két
Đời 19: Cụ Lê Thị Thờng, lấy chồng làng có 1 con trai, làm ruộng
Đời 19: Cụ Lê Luân, kỵ 12 - 4. Cụ bà là Lê Thị Đang, dòng Lê Đình,
kỵ 9 - 7, hai cụ có 6 người con
Lê Huân
Lê Thị Vang
Lê Thị Phương
Lê Huấn
Lê
Thị Phơn
Lê
Xuấn
Đời 19: Cụ Lê Trạc. Cụ bà Lê Thị Bạn, dòng Lê Đình. Hai cụ có 5
người con:
Lê Liên
Lê Thị Điền
Lê Hằng
Lê
Hạnh
Lê
Thị Khuê
Đời 19: Lê Thị Két, lấy chồng làng có 1 con gái
Đời 20: Ông Lê Huân, kỵ 6 -
3 -1980. Bà là Đỗ Thị Sơm, sinh năm 1910 - Năm 2005 cụ 96 tuổi. Ông bà có 4
người con:
* Lê Thị Len - làm ruộng ở quê.
Chồng là Lê Văn Phương, dòng Lê Văn, công nhân nhà máy say Hàm Rồng về chế độ,
mất năm 1996, có 4 con trai, 4 con gái.
* Lê Thị Ven, Công nhân vận tải
Thuỷ, về chế độ. Chồng là Nguyễn Xuân Cận, quê ở Yên Định, đi bộ đội thời chống
Mỹ phục viên về quê làm ruộng, có 3 con trai 1 con gái.
* Lê Hữu Hiên:1947, nhập ngũ vào
quân đội 1965, hy sinh ngày 18/9/1970, tức ngày 18/8 Canh Tuất.
* Lê Thị Nhiên: 1950, kế toán Hợp
tác xã Nông nghiệp. Chồng là Trần Xuân Toản:1956, đi bộ đội thời đánh Mỹ 1971
đến năm 1975 chuyển ngành về Xí nghiệp ô tô 19 - 5, sau đó về mất sức, có 3 con
gái và 1 con trai.
Đời 20: Lê Thị Vang. Chồng là Đỗ Khắc Dơi, người cùng làng có 2 con
gái - làm ruộng
Đời 20: Lê Thị Phương. Chồng là Lê Đình Chơi, người xóm Trại, sinh
người con trai đầu lòng, chết cả mẹ lẫn con.
Đời 20: Ông Lê Huấn, kỵ 21 - 7 - 2000. Bà là Nguyễn Đỗ Thị Nghinh.
Ông đi lính sang Pháp được kết nạp
vào Đảng cộng sản Pháp. Khi đất nước hoà bình Chính phủ Pháp vẫn trả lương cho
ông.
Bà Nghinh - cụ
thân sinh ra bà Nghinh là người Nghệ An dòng họ Nguyễn, vì cụ mất sớm nên cụ bà
cho bà Nghinh mang thêm họ Đỗ của mẹ. Ông bà
có một người con gái duy nhất là Lê Thị én.
* Lê Thị én - Chồng là Nguyễn Văn
Toàn, quê ở Nghệ An, có 2 con trai và 2 con gái.
Đời 20: Lê Thị Phơn - Chồng là Nguyễn Xuân Phùng, có 1 con trai, là
Nguyễn Xuân Liễn và 1 con gái chết trẻ.
Đời 20: Lê Xuấn:1927, đi bộ
đội chống Pháp năm 1945, năm 1956 chuyển ngành về Bộ thuỷ sản, sau đó chuyển về
Ban tổ chức chính quyền Thanh Hoá, đến năm 1971 về hưu. Ông vào Đảng CSVN năm
1949; khi về hưu với nhiều lý do ông đã bỏ sinh hoạt.
Bà là Phạm Thị
Chuộng, người cùng làng làm ruộng. Ông bà có 4 con:
* Lê Thị Hà: 1958 - Chồng là Nguyễn
Đức Độ, người xóm Bắc làm ruộng, có 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Thị Hải: 1961 - Chồng là Trần
Xuân Thanh cùng làng, đi làm ăn kinh tế ở Biên Hoà, có 2 con trai.
* Lê Hữu Thanh: 1964. Vợ là Vũ Thị Hoa, quê
Hải Dương. Buôn bán tự do ở Hà Nội, có 2 con:
Lê
Thị Hoa
Lê
Hữu Đạt
* Lê Hữu Thuỷ: 1968. Vợ là Nguyễn
Thị Ngoan: 1971. Làm ruộng ở quê, có 2 con gái:
Lê
Thị Nhung
Lê
Thị Trang
5. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ SUY - cành nhì
Đời 17: Chi nhánh cụ Lê Suy Cành nhì
Đời 17: Chi nhánh cụ Lê Suy Cành nhì
Đời 18: Lê Vừng Lê Ê Lê A










Đời 20: Lê Nài
Lê Ngưỡng Lê Văn Lê Thơ
Lê Hảo Lê Hậu Lê Hải
Đời 17:
Gia phả không còn, các tư liệu truyền miệng dựng lên không chính xác cho nên
đời 17 không thuyết minh được, chúng tôi
chỉ dựng lại cụ Lê A ở đời 18.
Đời 18: Cụ Lê A kỵ 7 - 4, cụ
bà là Đỗ Thị Chép, kỵ 14 - 4. Hai cụ làm ruộng sinh được 3 con trai: Lê Liệp,
Lê Nháy, Lê Số; 2 con gái: Lê Thị Hỏi, Lê Thị Giật (Cụ Giật chết năm 13 tuổi).
Đời 19: Cụ Lê Liệt - Kỵ 3 - 7;
Cụ bà là Lê Thị Hơn dòng Lê Bá - Kỵ 13 - 9. Hai cụ làm ruộng, sinh được 2 trai,
2 gái là: Lê Nài, Lê Ngưỡng, Lê Thị Sơn, Lê Thị Xuyên.
Đời 19: Cụ Lê Thị Hỏi, lấy
chồng làng; 1 con trai, 1 con gái và 1 con trai chết trẻ.
Đời 19: Cụ Lê Nháy - Kỵ 19 -
11 - 1996. Cụ là công nhân Bưu điện Thanh Hoá về hưu. Cụ bà là Lê Thị Nưng họ
Lê Đình - Kỵ 23 - 11 - 2004, làm ruộng ở quê, 2 cụ có 3 con trai, 4 con gái,
người con trai cả mất sớm gia đình thương tiếc không muốn ghi lại tên. Các con
là: Lê Thị Minh, Lê Văn, Lê Thị Hay, Lê Thị Phú, Lê Thơ, Lê Thị Nhàn.
Đời 19: Cụ Lê Số - Kỵ 8 - 8,
Cụ bà là Nguyễn Thị Mận, quê ở Nam Định làm con nuôi gia đình cụ Bẫm ở Vệ Yên.
Các cụ làm ruộng và có 9 người con: 3 con trai, 4 con gái, chết trẻ 1 gái, 1 trai.
Các con là: Lê Thị Mà, Lê Thị Thắm, Lê Thị Hoà, Lê Hảo, Lê Thị Hiền, Lê Hậu, Lê
Hải.
Đời 20: Ông Lê Hữu Nài -1933
đi công nhân Đường sắt, chuyển về nhà máy cưa Mật Sơn và nghỉ hưu. Bà là Đỗ Thị
ý - 1940 làm ruộng, có 3 con trai, 3 con gái.
*
Lê Hữu Kiều - 1960: Đảng viên ĐCSVN, đi xuất khẩu lao động Hunggari 4 năm, về
nước, được bạn bảo lãnh sang Tiệp tiếp
tục làm ăn. Vợ là Vũ Thị Hoà -1960, quê làng Nhồi Đông Hưng, có 2 con gái, 1
con trai.
* Lê Hữu Tú - 1960: Công nhân đường
sắt, Vợ là Nguyễn Thị Hợi -1971 làm ruộng ở quê.
*
Lê Hữu Ba -1967: Vợ là Nguyễn Thị Loan -
1971, làm ruộng ở quê
* Lê Thị Yến - 1970: Chồng là Phạm Văn
Sơn - 1959, Công nhân địa chất, có 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Thị Hoa 1973: Làm ruộng: Chồng là
Trần Đình Sáu - 1970, làm ruộng, có 2 con trai.
*
Lê Thị Hương - 1979: Công nhân may giầy da xuất khẩu Thanh Hoá.
Đời 20: Lê Hữu Ngưỡng -1934:
Những năm đầu mới thoát ly làm công nhân ngành đặc sản ở Hồi Xuân chuyên khai
thác cánh kiến đỏ, sau đó làm nhân viên điều tra quy hoạch rừng, công nhân cầu
đường lái máy ủi, khi chiến tranh bùng nổ
thì nhập ngũ vào quân đội, sau đó chuyển ngành về nhà máy xi măng 3 - 2
của Thanh Hoá, rồi về mất sức. Bà là Đỗ Thị Ngà - 1939, quê Nghệ An làm con nuôi
nhà Cụ Tuân khi đó cụ Tuân làm ăn buôn bán ở Nghệ An, nên đã nhận con nuôi. Ông
bà có 3 con trai và 3 con gái, người con trai thứ 3 chết lúc 4 tuổi.
* Lê Hữu Kim - 1960: Làm ruộng ở quê,
vợ Phạm Thị Hoà - 1958, người chợ Bùi - Quảng Giao - Quảng Xương, có 1 con
trai, 1 con gái.
* Lê Hữu Tuấn -1967: Làm ruộng ở quê,
vợ Phạm Thị Châu, người cùng làng, làm ruộng, có 1 con trai.
* Lê Thị Oanh - 1974: Làm ruộng.
* Lê Thị Bình -1976: Lấy chồng có 1 con trai,
chồng bỏ đi mất tích.
* Lê Thị Toàn - 1978: Làm ruộng.
Đời 20: Lê Thị Sơn -1940: Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi thanh niên xung phong, sau đó chuyển về
Xí nghiệp cơ khí nông nghiệp làm công nhân và về mất sức nghỉ tại quê.
Đời 20: Lê Thị Xuyên: Đi
thanh niên xung phong, sau đó về làm ruộng ở quê. Chồng là Nguyễn Văn Lặng,
người Quảng Ngọc - Quảng Xương, đi bộ đội chiến đấu ở Miền Nam. Sau đó về làm
ruộng ở quê, có 2 con gái là: Hồng và Thuỷ, 3 con trai, là Đặng, Anh, Chung.
Đời 20: Lê Thị Minh: Công
nhân xí nghiệp gốm lò chum về hưu, chồng là Hoà quê ở Hoàng Hoá, cũng là công
nhân xí nghiệp gốm lò chum về hưu. Ông bà có 1 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Văn: Đi bộ đội
tham gia chiến đấu ở CamPuChia, bị thương năm1978, phục viên về quê làm ruộng,
vợ là Nguyễn Thị Thảo, công nhân Xí nghiệp gốm bị bệnh ốm nặng chết năm 1996,
có 2 con trai: Lê Việt, Lê Nam.
Đời 20: Lê Thị Hay: Làm ruộng
Đời 20: Lê Thị Phú: Làm ruộng
Đời 20: Lê Hữu Thơ - 1964 đi
công nhân quốc phòng phục vụ ở Lào 4 năm, về làm ruộng ở quê. Vợ Nguyễn Thị Hội
cũng công nhân quốc phòng phục vụ ở Lào: 4 năm về làm ruộng ở quê. Có 3 con: Lê
Hữu Đông, Lê Hữu Bắc, Lê Thị Hồng.
Đời 20: Lê Thị Nhàn -1969:
Làm ruộng ở quê. Chồng tên là Công, người làng Bố Vệ, có 2 con gái là Lý và
Nhung, 1 con trai là Sự.
Đời 20: Lê Thị Mà -1949: Làm
ruộng chồng là Cảnh, quê Thọ Xuân, có 5 con trai.
Đời 20: Lê Thị Thắm: Chồng là
Mùi, cả 2 vợ chồng đều đi bộ đội trong kháng chiến Chống Mỹ cứu nước, cùng
thương binh, về Xí nghiệp may của quân
đội ở Thanh Hoá và về hưu, có 1 con gái và 2 con trai.
Đời 20: Lê Thị Hoà: Làm
ruộng, chồng là: Đỗ Dũng, người cùng làng đi công nhân Gang thép Thái Nguyên,
chuyển về mỏ Crômmít Cổ Định và về chế độ một lần, có 2 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Hảo -1959: Đi công nhân Gang thép Thái
Nguyên sau đó chuyển về Crommít Cổ Định và về chế độ một lần. Vợ là Lê Thị Yên
dòng họ Lê Đình, có 1 con trai và 1 con gái: Lê Hữu Chung, Lê Thị Thuỷ.
Đời 20: Lê Thị Hiền -1961: Đi
bộ đội phục vụ chiến tranh Biên giới Tây Nam 1978 - 7979, sau đó chuyển về Xí
nghiệp may Sở TBXH Thanh Hoá về nghỉ chế độ. Chồng là Cao Văn Khoa, quê ở Hoàng
Hoá, cũng là Thương binh ở Xí nghiệp may Thanh Hoá về hưu, chuyển vào Lâm Đồng
làm kinh tế, có 2 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Hậu -1964: Học hết cấp 2, đi nghĩa vụ quân sự,
về làm ruộng ở quê.
Vợ cả là Đỗ Thị Vân, người cùng làng bị
bệnh chết, có 2 con gái là: Lê Thị Trinh, Lê Thị Lý. Vợ hai tên là: Thắm, người
Hà Nam, có 1 con gái (Ông Hậu bị ung thư Gan chết năm 2005).
Đời 20: Lê Hải -1967: Học hết
cấp 2, đi nghĩa vụ quân sự, về quê làm ruộng, vợ là Mai Thị Thanh, người cùng làng
là công nhân cơ khí chuyển sang công nhân khai thác khoáng sản. Con là: Lê Thị
Hà, Lê Thị Lan, Lê Hữu Thành.
6. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ DỰC - Cành nhìĐời 17: Chi nhánh cụ Lê Dực cành nhì
![]() |




(Vô tự) (Vô tự)
Lê Hồ
Đời 18: Hậu thế chỉ nhớ rằng: Cụ Lê Hữu Ca có 4 người con, 3 trai và
1 gái.
Lê Trọng: (Vô Tự)
Lê Thúc: (Vô tự)
Lê Hiến
Lê
Thị Chuộng.
Đời 19: Cụ Lê Hiến kỵ 14 - 12. Cụ bà là Lê Thị Lệ, kỵ 9 - 8, hai cụ
có 4 con gái và 1 con trai.
Đời 20: Lê Thị Diện định cư ở Như Thanh. Chồng là Quách Ngọc Quyến,
người dân tộc Mường, huyện Cẩm Thuỷ lái xe ở Lâm trường Như Xuân có 2 con trai
và 4 con gái.
Đời 20: Lê Hồ: 1949. Vợ là Trần Thị Thảo, người cùng làng, cả gia
đình đi làm ăn ở Biên Hoà, có 2 con gái và 1 con trai.
* Lê Thị Thu:
1974. Lấy chồng người Ninh Bình là Công an TP. Hồ Chí Minh, có 1 con trai, 1
con gái.
* Lê Hữu
Đông:1979
* Lê Thị Xuân:
Đời 20: Lê Thị Thuý. Lấy chồng là Trần Văn Khương làm ruộng, ở Bến
Sung huyện Như Thanh, có 2 con trai, 1 con gái đang đi làm ăn ở Miền Nam.
Đời 20: Lê Thị Tú: 1956. Chồng là Nguyễn Văn Sang, người ở phố Lò
Chum - Phường Trường Thi - TP. Thanh Hoá. Cả 2 vợ chồng trước kia là công nhân
đường sắt, nhưng đã giải nghệ về làm ruộng và buôn bán tự do, có 2 con gái.
Đời 20: Lê Thị Tuấn. Chồng là Nguyễn Văn Thai, quê ở Hoằng Hoá làm
ở Lâm Trường Như Thanh về hưu, có 3 con gái, 1 con trai.
7. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ SANG - Cành nhì
Đời 17: Chi nhánh cụ Lê sang Cành nhì
Đời 17: Chi nhánh cụ Lê sang Cành nhì





![]() |
|||
![]() |
|||
Đời 20: Dịu bá chủ cầu nhân quý
Đời 17: Đời thứ 17 cụ
Lê Sang: Chết trẻ có một người con trai là Lê Chính, cụ bà không nhớ tên đã đi
bước nữa nên không ai nhớ huý kỵ của hai cụ.
Đời 18: Cụ Lê Chính kỵ
26/7. Cụ bà Lê Thị Độ: Người cùng làng dòng họ Lê Đình kỵ 10/4. Hai cụ có 7
người con:
1. Lê Thị Tày
2. Lê Thị Chưng
3. Lê Hữu Hộ -
Lê Hữu Mai
4. Lê Thị Mùi
5. Lê Thị Xã
6. Lê Thị Phùng
7. Lê Hữu Cử
Đời 19: Cụ Lê Thị Tày:
Lấy chồng làng dòng họ Trần tên là Mừng. Các cụ làm ruộng ở quê có một con trai
và một con gái.
Đời 19: Cụ Lê Thị
Chưng: Lấy chồng làng dòng Lê Đình tên là Xứng các cụ làm ruộng ở quê có một
con trai và một con gái.
Đời 19: Cụ Lê Hộ - Lê
Mai kỵ 23/8.
Sau cách mạng tháng
8/1945 cụ tham gia nhiều công tác ở địa phương, là Đảng viên ĐCSVN. Sau năm
1950 cụ được cử vào hoạt động trong Hội phật giáo. Là một Đảng viên nhưng lòng
tín ngưỡng hơi cao nên cụ bị quy là phật tử; đến năm 1953 bị khai trừ khỏi
Đảng. Cụ có 2 bà vợ.
Bà cả: Lê Thị Thênh
dòng Lê Đình làm ruộng, có 6 con.
1. Lê Tau chết lúc 6 tuổi
2. Lê Thị Dân
chết lúc 15 tuổi vì bệnh tim.
3. Lê Thị Quê
4. Lê Thị Quy
5. Lê Thị Phượng
6. Lê Dịu.
Bà hai:
Trần Thị Tuất - 1920: người cùng làng, có 5 con.
1. Lê Thị Mùa - 1948 chết khi 2
tuổi vì bệnh đậu mùa.
2.
Lê Bá
3.
Lê Chủ
4.
Lê Thị Hoàn -1957 ốm chết 1963
5.
Lê Cầu
Đời 19: Cụ Lê Thị Mùi lấy ông Lê Viết Nhì người cùng làng có 2
con gái.
Đời 19: Lê Thị Xã lấy
ông Đỗ Chúng - Đảng viên ĐCSVN, có 5 con trai, 2 con gái.
Đời 19: Cụ Lê Thị
Phùng lấy chồng ở làng Quảng, xã Đông Vệ làm ruộng, có 2 con trai, 1 con gái.
Đời 19: Cụ Lê Cử
-1928, làm ruộng. Năm 1964 cụ Cử và gia
đình đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Như Xuân. Năm 2002 chuyển về thị trấn Bến
Sung huyện Như Thanh sống với gia đình người con trai cả. Cụ bà là Phạm Thị
Vượng - 1929 ở phố Huế - Thành phố Thanh Hoá. Hai cụ có 8 người con.
1. Lê Anh Nhân
2. Lê Thị Viên
3. Lê Thị Phú
4. Lê Thị
Thịnh
5.
Lê Quý
6. Lê Thị Ngọc
7.
Lê Thị Liên
8.
Lê Thị Minh
Đời 20: Lê Thị Quê -
1947 là cửa hàng phó cửa hàng lương thực huyện Quảng Xương về hưu. Chồng là Lê
Đình Diễn người cùng làng - thiếu tá quân đội về hưu Đảng viên ĐCSVN có 1 con
gái, 3 con trai.
Đời 20: Lê Thị Quy - 1951 lấy chồng xã Quảng Ninh
huyện Quảng Xương tên là Tới là cán bộ lương thực về hưu- Đảng viên ĐCSVN có 1
con gái.
Đời 20: Lê Thị Phượng
- 1954 làm ruộng, lấy chồng làng là Đỗ Tuấn, 1 con gái, 4 con trai.
Đời 20: Lê Dịu - 1960:
làm ruộng ở quê. Vợ là Trịnh Thị Chánh - 1958 quê ở xã Quảng Thành, có 2 con
trai.
1. Lê Lộc - 1980 - Hàm thụ tin học
2. Lê Đa - 1983
Đời 20: Lê Bá- 1950:
Nhập ngũ vào quân đội 1968, phục viên 1970. Khi chiến tranh biên giới xảy ra,
tái ngũ 1978, đến năm 1982 phục viên, cấp bậc Trung uý, Đảng viên ĐCSVN, phục
viên về quê với chế độ bệnh binh nên lương thấp. Về quê có tham gia một số công
tác ở địa phương, sau đó thôi sinh hoạt Đảng.
Vợ là Nguyễn Thị Hương - 1952: Người
làng Yên Biên. Năm 1971 nhập ngũ vào quân đội phục vụ ở đường dây 559 đến năm
1975 phục viên. Từ năm 1976 tham gia nhiều công tác ở UBND xã Quảng Thắng, là
Đảng viên ĐCSVN, là Hội trưởng phụ nữ xã, về hưu năm 2001. Có 1 con gái và 1
con trai.
* Lê Thị Hoa - 1977: ĐHSP I Hà Nội, giáo
viên ngoại ngữ trường THCS Quảng Lưu- Quảng Xương. Chồng là Lê Ngọc Huynh -
1974 quê ở xã Quảng Thọ, là công nhân nhà máy bia Thanh Hoá.
* Lê Quế - 1979: Kiến trúc sư công tác ở
Công ty xây dựng Thanh Hoá.
Đời 20: Lê Chủ - 1952: Nhập ngũ vào quân đội năm
1971, đến năm 1988 về phục viên theo chế độ bệnh binh, cấp hàm Đại uý, Đảng
viên ĐCSVN. Về địa phương tham gia nhiều công tác khác nhau, Chủ tịch CCB của
xã. Với nhiều lí do khác nhau, năm 2005 đã nghỉ chức Chủ tịch CCB.
Vợ là Phạm Thị Huệ:
người cùng làng, tốt nghiệp Cao đẳng y khoa Thanh Hoá, công tác ở bệnh viện
Thanh Hoá, có 2 con: 1 trai, 1 gái.
* GIA PHẢ CÀNH BA
8. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ KIÊN - Cành 3
Đời 17: Chi nhánh cụ Lê Kiên Cành 3
![]() |
![]() |
![]() |
|||
![]() |
|||||
![]() |
![]() |
||||
9. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ ĐA - Cành ba
Đời 18: Chi nhánh cụ Lê Đa Cành ba
Đời 18: Chi nhánh cụ Lê Đa Cành ba



Đời 20: Lê Inh Lê Công Lê
Minh
Đời 18: Cụ Lê Đa Không
nhớ năm sinh Kỵ tháng 4
Cụ bà không nhớ
tên, năm sinh Kỵ tháng 6
Lê Thị Bịch
Lê Thị Kịch
Lê Bồ
Đời 19: Lê Thị Bịch lấy
chồng họ Phạm, cùng làng có 1 con trai 2 con gái.
Đời 19: Lê Thị Kịch
lấy chống họ Phạm, cùng làng có 1 con gái.
Đời 19: Lê Bồ - Kỵ
10/6. Cụ và Phạm Thị Ưởng cùng làng - Kỵ 19/3. Hai cụ có 2 con gái 3 con trai.
Lê Thị Choẹ
Lê Hữu Inh
Lê Thị ưng
Lê Hữu Công
Lê Hữu Minh
Đời 20: Lê Thị Choẹ lấy
chồng họ Trần, cùng làng có 2 con gái 1 con trai.
Đời 20: Lê Hữu Inh
sinh năm 1916 đi lính sang Pháp 3 năm theo chế độ quân dịch. Về nước trước năm
1945, được phong "bếp" - binh nhất. Bà là Phạm Thị Lỗi sinh năm 1922 quê
Thanh Miện - Hải dương. Ông bà sinh được
3 người con gái, 1 người con trai.
* Lê Thị Thanh
sinh năm 1948, chồng là Nguyễn Minh Đức người Hoằng Hoá làm nghề lái xe, có 1
con gái.
* Lê Hữu Bình - sinh năm 1953, đi
bộ đội chống Mỹ 1972 -1977 chuyển ngành về cơ khí Thanh Hoá và về chế độ mất
sức. Vợ làLê Thị Mai sinh năm 1962 dòng họ …………………. làng …………………….. là công
nhân Công ty Xây dựng 1 của Thành phố Thanh Hoá về chế độ 1 lần, có 2 con gái,
1 con trai.
- Lê Thị Tú Quỳnh- sinh năm 1985
sinh viên Đại học Quản trị kinh doanh.
- Lê Thị Ngân Hoa - sinh năm 1987
- Lê Trung Kiên
- sinh năm 1997
* Lê Thị Yên - Sinh năm 1958 giáo viên PTCS Nguyễn Văn Trỗi. Chồng là Trịnh Đức Tạo 1952
giáo viên PTTH Đào Duy Từ, có 1 con trai.
* Lê Thị Nhàn - Sinh năm 1962 học
hết PTCS đi bộ đội, về lấy chồng, làm nội trợ. Chồng là Nguyễn Hải Long - Sinh
năm 1958 giáo viên trường PTCS chuyên Trần Mai Ninh, đảng viên Đảng CSVN, có 2
con trai.
Đời 20: Lê Thị ưng ………………… lấy chồng làng, làm ruộng
Đời 20: Lê Hữu Công - Sinh năm 1926. Trong kháng
chiến chống Pháp đi dân công nhiều đợt phục vụ các chiến dịch. Ông có 2 đời vợ.
-> Bà cả Lê Thị Ngơi -1930 dòng họ Lê Đình, có 3 con gái, 1
con trai.
* Lê Thị Vượng -
Sinh năm 1948 lấy chồng bộ đội tên là Dong, quê ở Nghệ An, hết chiến tranh theo
chồng về quê làm ruộng.
* Lê Thị Vinh - Sinh năm 1951. Lấy chồng Quảng Xương, làm ruộng.
* Lê Hữu Văn -
Sinh năm 1954. Đi bộ đội 1974 đảng viên, định cư ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ là
Lê Thị Huyền - Sinh năm 1952 có 3 con gái.
* Lê Thị Vĩnh - Sinh
năm 1961. Công nhân nhà máy thuốc lá Thanh Hoá. Chồng là Thắng quê ở Hà Trung
có 2 con gái.
-> Bà hai Lê Thị Hữu - Sinh
năm 1940 dòng họ Lê Đình. Sau khi bà cả mất ông Lê Hữu Công lấy bà hai sinh
thêm 2 con trai 1 con gái.
* Lê Hữu Thắng -
Sinh năm 1972 lái xe. Vợ là Nguyễn Thị Mai, làm ruộng, 1 con gái.
* Lê Hữu Thành -
Sinh năm 1974, lái xe. Vợ là Nguyễn Thị Thanh 1976 quê ở Lưu Vệ - Quảng Xương,
có 1 con trai.
* Lê Thị Thịnh - Sinh năm 1975 lấy chồng họ Đỗ cùng làng, 2 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Minh -
Sinh năm 1934 đi bộ đội chốnh Pháp, cấp hàm Đại tá về hưu, đảng viên Đảng CSVN,
định cư ở Hà Nội.
Bà là Nguyễn Thị Bé quê ở Hưng Yên. Phó Giám đốc nhà máy ép dầu Vĩnh Yên,
đảng viên Đảng CSVN, về hưu. Ông bà có 1 con gái 3 con trai.
* Lê Thị Thu -
Sinh năm 1958 giáo viên Tiểu học Vĩnh Yên. Chồng là Toàn giáo viên trường Đại
học Quân sự cấp hàm Thượng tá. Có 2 con trai 1, con gái đều đã tốt nghiệp Đại
học.
* Lê Hữu Đông -
Sinh năm 1960 đi bộ đội về làm công nhân nhà máy ép dầu Vĩnh Yên và định
cư ở Vĩnh Yên. Vợ là Lê Thị Tơ quê ở
Vĩnh Yên, có 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Hữu Xuân -
Sinh năm 1962 công tác ở ban cơ yếu Chính phủ.Vợ là Mai cùng cơ quan, có 1 con
trai, 1 con gái ở Hà Nội.
* Lê Hữu Thuỷ - Sinh năm 1964
giáo viên trường Kỹ thuật mật mã. Vợ là Nguyên Thị Xuân, cùng cơ quan với
chồng, có 1 con trai, có 1 con gái ở Hà Nội.
10. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ PHONG - Cành ba
Đời 17: Chi nhánh Cụ Lê Phong Cành ba
![]() |
Đời 18: Lê Tân Lê Tiến
![]() |
![]() |
||


Đời 20: Lê Đồng Lê
Sơn
Đời 17: Cụ Lê Phong.Các cụ có 2 người con trai là Lê Tân, Lê Tiến
và một người con gái lấy chồng ở Quảng Xương, lâu rồi con cháu không về không
biết thêm về lai lịch.
Đời 18: Cụ Lê Tân . Cụ bà là
Phạm Thị Hay, kỵ 6 - 02. Trong gia phả chỉ ghi có 2 người con trai là Cụ Lãng, Cụ Tởng còn con gái không biết. Cụ Lê
Lãng (vô tự), cụ Lê Tởng sinh ra Lê Đồng.
Đời 18: Cụ Lê Tiến. Có 3 con trai là Lê Tác, Lê Tiệp, Lê Tịch và 1
con gái là Lê Thị Lộc.
Đời 19: Cụ Lãng, kỵ vào tháng 4, có 1 con gái
lấy chồng ở Đông Sơn.
Đời 19: Cụ Lê Tởng, kỵ 4 - 02. Cụ bà là Lê Thị Thìn, dòng họ Lê
Đình, kỵ 19 - 01. Hai cụ có 1 người con trai duy nhất là Lê Đồng.
Đời 19: Lê Tịch, kỵ 13 - 6. Cụ bà là Phạm Thị Họ, kỵ 18/5/2000. Hai
cụ có con trai là Lê Sơn và 7 người con gái.
Đời 19: Lê Thị Lộc, lấy chồng
làng, có 2 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Đồng: Sinh năm 1936, đi bộ đội
năm 1961 đến năm 1966 phục viên về làm ruộng ở quê, có 1 thời gian dài là Phó
Công an xã Quảng Thắng. Ông có 2 người
vợ, có 2 con trai và 1 con gái.
Bà cả là Đỗ Thị Tuyết, người cùng
làng, sinh ra Lê Bằng. Bà đã bị bệnh ốm nặng một thời gian dài và chết.
Bà hai là Hà
Thị Thanh, quê ở Nga Sơn là y sỹ của Bệnh viện Thanh Hoá. Sinh được 1 con trai
Lê Bắc và 1 con gái là Lê Thị Thuỷ.
* Lê Hữu Bằng:
1966, công nhân thuỷ tinh gốm xứ Hà Nội.
Vợ là Cầm Thị Ly, 1970 làm ruộng ở quê, có 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Hữu Bắc:
1977, sau khi hoàn thành NVQS về quê làm ruộng. Vợ là Nguyễn Thị Hằng, người
Ngọc Lặc, làm ruộng
* Lê Thị Thuỷ:
1982
Đời 20: Lê Thị Hoà, làm ruộng ở quê. Chồng là Đỗ Khắc Hội - Phòng
tổ chức chính quyền Thanh Hoá - Đảng viên - Đảng CSVN. Có 3 con gái, 1 con
trai.
Đời 20: Lê Thị Hảo, làm ruộng ở quê. Chồng là Vũ Văn Hoàn, người Đa
Lộc - Hậu Lộc đi bộ đội đánh Mỹ, là
thương binh, về quê làm ruộng, có 4 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Thị Chung. Chồng là Nguyễn Văn Thức, quê ở Thọ Xuân làm
ruộng có 1 con trai,1 con gái.
Đời 20: Lê Thị Châu, làm ruộng. Chồng là Lê
Đình Minh, người cùng làng, lái xe cho Công ty môi trường đô thị, có 2 con gái,
1 con trai.
Đời 20: Lê Thị Bé. Chồng tên là Nam, bị tai nạn giao thông, có 1
con trai
Đời 20: Lê Thị Bích
Đời 20: Lê Thị Dân, làm ruộng. Chồng là Phạm Văn Khiêm, người cùng
làng làm ruộng có 1 con trai.
Đời 20: Lê Sơn:1972. Vợ là Lê Thị Hạnh, dòng Lê Viết, làng Vệ Yên,
làm ruộng, có 2 con trai
* Lê Hồng
Thái:1995
*Lê
Hồng Hải: 2002.
11. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ NĂM - Cành ba
đời 17: Chi nhánh Cụ Lê Năm Cành ba
![]() |











Đời 20: Mưu Mô Dọng Thạo Nhẫn
Hạnh Chung
Chi nhánh này đời thứ 20 nhớ rất ít
về quá khứ; Vậy dựng lại chủ yếu từ đời thứ 19.
Đời 19: Cụ Lê Hữu Thể - Kỵ
24 - 6. Cụ bà là Nguyễn Thị Rô, kỵ 24
- 9. Hai Cụ có 3 người con là: Lê Thị Toan, Lê Mưu, Lê Mô.
Đời19: Cụ Lê Thiết, kỵ 16 -1. Cụ bà là Lê Thị Dài, kỵ 02 - 4. Hai
cụ chỉ có 1 người con duy nhất là Lê Dọng.
Đời 19: Cụ Lê Soát (vô tự)
Đời 19: Cụ Lê Thuyết có 2 con trai thất lạc trước năm 1945 - Gia
phả cũng ghi là vô tự.
Đời 19: Cụ Lê Hữu Cởm - kỵ 14 - 5.Cụ bà là Đỗ Thị Lân, kỵ 19 - 7
Hai cụ có 9
người con là Lê Hữu Thạo, Lê Hữu Nhẫn, Lê Thị Ven, Lê Hữu Hạnh (Liệt sỹ, kỵ 25.1), Lê Thị Hiên (tạ thế ngày 14.8.1982 tức ngày 25.6 Nhâm tuấn, thọ 33 tuổi), Lê Thị Thảo,
Lê Thị Nguyên, Lê Hữu Chung và Lê Thị Liên.
Đời 20: Lê Thị Toan lấy chồng làng, là:
Có 3 con trai và 1 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Mưu. Bà là Trần Thị Rõ. Ông bà có 5 người con:
* Lê Thị Thiêm: lấy chồng Làng Hạc,
định cư ở xã Quảng Thịnh - Quảng Xương, có 3 con gái và 1 con trai.
* Lê Hữu Đặng - 1953: Đi bộ đội
phục viên về làm ruộng ở quê. Vợ là Lê Thị Minh, quê ở Thọ Xuân, làm ruộng.
* Lê Thị Thơm:
Lấy chồng ở xã Đông Tân, có 1 con trai và 1 con gái.
* Lê Hữu Vinh - 1959: Vợ là Thanh
người xã Quảng Thịnh - Quảng Xương, có 2 con trai, 1 con gái.
* Lê Hữu Phú - 1961: Vợ là Nguyễn
Thị Thanh, người làng Bố Vệ.
Đời 20: Lê Hữu Mô - 1934, kỵ 6 - 5 -1998 đi bộ đội và thanh niên
xung phong thời Chống Mỹ, bị mất giấy tờ gốc, nên chẳng có chế độ gì. Bà là
Nguyễn Thị Thư - 1936. Ông bà có 6 người con.
* Lê Hữu Quang
- 1960: Đi bộ đội chiến đấu ở chiến trường Biên Giới năm 1979, phục viên về làm
ruộng ở quê. Vợ là Trần Thị Dung - 1961, Đảng viên ĐCSVN; năm 2005 là Bí thư
chi bộ.
* Lê Thị Minh
- 1963:
Chồng là Đỗ
Khắc Việt - 1961
* Lê Thị Liên
- 1966:
Chồng là Lê Đình Lai.
* Còn 3 người
con trai nữa là: Lâm, Trường, Hải bị chết trẻ vì bom mìn.
Đời 20: Lê Dọng - 1940, đi
bộ đội trong thời kỳ đánh Mỹ, phục viên về nhà máy Giấy Lam Sơn, sau chuyển
sang Công ty xây lắp Điện lực. Đảng viên ĐCSVN, Phó phòng vật tư của Công ty
xây lắp Điện lực mất ngày 15/10/2004.
Ông Dọng có 2 vợ.
Bà cả là Nguyễn Thị Nhiên, người
cùng làng, kỵ 2 - 7, khi chết Bà là Chủ
tịch xã Quảng Thắng, là Đảng viên ĐCSVN. Có 2 con là:
* Lê Thị Hương - 1966: Buôn bán tự
do. Chồng là Đinh Văn Dũng - 1961 - Phó Chủ tịch Thị trấn Hà Trung, đảng viên
ĐCSVN. Có 1 con trai và 1 con gái.
* Lê Hữu Hải - 1967: Làm ruộng ở
quê. Vợ là Trần Thị Bảy - 1972: Làm ruộng ở quê.
Có 2 con trai: Lê Hữu Tuấn Anh và
Lê Hữu Long.
Bà hai Nguyễn Thị Vinh - 1953:
Người làng Quảng xã Đông Vệ. Năm 1973 học Trung cấp kế toán, năm 1976 về Công
ty cổ phần xây lắp Điện lực, đảng viên ĐCSVN - 1995. Có 2 con:
* Lê Thị Hoa - 1979: Giáo viên cấp
3 Như Thanh. Chồng là Lê Văn Tư, người quê ở Như Xuân - Giáo viên THPT Như
Thanh, đảng viên ĐCSVN.
* Lê Hữu Hùng - 1981: Cử nhân Bách
khoa Hà Nội
Đời 20: Lê Hữu Thạo - 1937: Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Vinh - Nguyên là Hiệu trưởng trường Cấp I-II Xã Quảng Thắng (Tạ thế 17.8.1991 tức 8.7 Tân mùi, thọ 54 tuổi). Vợ là Lê Thị Hữu - 1935: Dòng họ Lê Đình làm ruộng ở quê. Ông bà có 6 người con:
* Lê Hữu Thái - 1959: Đi nghĩa vụ quân sự về làm ruộng ở
quê. Vợ là Lê Thị Thắng: Quê ở Chợ Lưu Vệ - Quảng Xương. Có 2 con trai là Sơn và Phong
* Lê Thị Lan - 1963: Làm ruộng ở
quê. Chồng là Ký, người làng Mật, có 2 con trai, 1 con gái.
* Lê Thị Ngọc - 1965: Làm ruộng ở
quê. Chồng là Hiển, người xóm Bắc, có 3 con trai.
* Lê Hữu Thọ - 1973: làm ruộng ở
quê. Vợ là Nguyễn Thị Thư, có 1 con gái và 1 con trai
Đời 20: Lê Hữu Nhẫn - 1940: Cán bộ Bưu điện về hưu. Bà là Nguyễn
Thị Tiệp - 1943: Làm ruộng ở quê. Ông bà có 3 con:
* Lê Hữu Minh - 1966: Đại học Quân
Sự - Thượng tá, Chỉ huy trưởng-Ban chỉ huy quân sự Huyện đội Thiệu Hóa-Thanh Hóa, đảng viên ĐCSVN. Vợ là
Mai Thị Hà: Người Nga Sơn - làm Nghề kinh doanh. Có 2 con gái là Lê Thị Diệu Huyền (sinh năm 1992) Đại học kế toán và Lê Thị Ngọc Anh (sinh năm 1998) Học sinh chuyên sử - Trường chuyên Lam Sơn, Thanh Hóa
* Lê Thị Hương - 1969: Chồng là
Nguyễn Văn Tùng, xã Đông Vệ, có 2 con gái là Nguyễn Mai Linh- Sinh viên Đại học Thương mại và Nguyễn Quỳnh Anh-học sinh trường cấp III Đào Duy Từ
* Lê Hữu Hà - Thạc sỹ kinh tế là Giám đốc công ty dịch vụ và truyền thông Sen Vàng. Vợ là Mai Lan Anh, Thạc sỹ, giảng viên Anh văn trường Đại học văn hóa Hà nội. Có 2 con gái là Lê Hà Chi (sinh năm 2004) và Lê Hà Minh Châu (sinh năm 2009).
Đời 20: Lê Thị Ven - 1945: Đảng viên ĐCSVN, cán bộ tổ chức Huyện uỷ
Quảng Xương về hưu. Chồng là Nguyễn Ngọc Việt: Quê ở Quảng Xương, cán bộ bưu
điện về hưu, có 1 con trai (tên là Nhất) 2 con gái (Là Nhị và Tam)
Đời 20: Lê Thị Thảo - 1952: Cán bộ phòng tài chính TP Thanh Hoá về
hưu. Chồng là Trần Văn Toản, người cùng làng, cán bộ ngành đường sắt về hưu, có 1 con gái (tên là Hồng) và 2 con trai (Dũng và Phúc).
Đời 20: Lê Hữu Hạnh: Nhập ngũ vào quân đội năm 3/1967. Hy sinh ngày 02/3/1970 (Tức ngày 25/1 năm canh Tuất).
Đời 20: Lê Hữu Hạnh: Nhập ngũ vào quân đội năm 3/1967. Hy sinh ngày 02/3/1970 (Tức ngày 25/1 năm canh Tuất).
Đời 20: Lê Thị Nguyên - 1957: Không lấy chồng làm ruộng ở quê.
Đời 20: Lê Hữu Chung - 1959: Làm thợ xây, Vợ là: Phương, người làng Bố Vệ, định cư ở làng Bố Vệ. có 1 con gái (tên Hoa) và 2 con trai là: Lê Hữu
Hùng và Lê Hữu Dũng (Lê Hữu Dũng đã mất do tai nạn lao động).
Đời 20: Lê Thị Liên - 1968: Làm ruộng, chồng là Vũ Văn Ngọc, người
làng Bố vệ, có 2 con trai.
12. PHÂN NHÁNH CÀNH 1 TẠI THƯỜNG XUÂN
Phân nhánh cành 1 họ Lê Hữu
ở làng hạ - xã thọ thanh - huyện thường xuân
Họ Lê Hữu ở làng Vệ Yên đến đời thứ
13 có sự tách hộ, tách nhánh theo nghĩa: Tỏa muôn nơi lập nghiệp khai cơ. Cụ Lê
Hữu Dụng đời thứ 13 lên vùng Tổng Bái định cư. Tổng Bái ngày đó có: Bái Thượng,
Bái Hạ và Bái Đô. Cụ Lê Hữu Dụng định cư ở Bái Hạ, nay là làng Hạ - xã Thọ
Thanh. Cụ bà tên là Minh, người làng nào, dòng họ nào không rõ. Hai cụ đi với
ai lên đây, mang theo bao nhiêu gia hạ, người thân; đi trong hoàn cảnh nào và
lên đây buổi đầu nương tựa vào ai? gia
phả không ghi. Hai cụ sinh ra hai người con trai là: Lê Đạo và Lê Thụy. Con
gái, cháu gái, con dâu gia phả không ghi. ở làng Hạ họ Lê Hữu phát triển nhanh
và toàn diện - như nhiều làng quê khác.
Đời thứ 18 có cụ Lê Hữu Hòe tham
gia Chiếu Cần Vương.
Đời thứ 19 có cụ Lê Hữu Am vì lý do kinh tế đã phiêu bạt
lên xã Cẩm Bình - Cẩm Thủy làm con ở cho một gia đình người Mán, lập nghiệp và
làm thầy đồ ở đó. Cụ lấy vợ và có hai người con trai là: Lê Tài và Lê Hải. Là
người Kinh nhưng ở với người Mán, phong tục, tập quán, lễ nghi theo người Mán
nên gọi là Tòng Mán.
Đời thứ 19 có
cụ Lê Hữu Nghê sau giải phóng Miền Nam được điều vào làm Giám đốc Sở Lâm nghiệp - tỉnh Thuận Hải. Cụ Nghê
có con trai là Lê Hữu Hiền, năm 2007 là trưởng phòng ANQG của Bộ Công an.
Đời thứ 19 có cụ Lê Hữu Bát - Phó
Trưởng phòng Giáo dục huyện Thường Xuân.
Đời thứ 20 có bà Lê Thị Vân - Mẹ
Việt Nam anh hùng.
Đời thứ 21 có Lê Hữu Sinh - Đại tá
chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa.
Tính đến mùa
xuân Mậu Tý năm 2008 phân nhánh của cành 1 họ Lê Hữu - xã Thọ Thanh đã có đến
đời thứ 23. Có 142 hộ gia đình, không tính gia đình con gái, số khẩu trên 560
người tính theo dòng nam. Số hộ và số khẩu nói trên định cư trên 10 địa danh
lớn cả nước, từ Cẩm Thủy đến Thanh Hóa đến Hà Nội và nhiều tỉnh ở Miền Nam.
Phân nhánh này có rất nhiều người thành đạt, bằng Cao đẳng, bằng Cử nhân có rất
nhiều, nhiều người là cán bộ trung cao cấp; Họ phục vụ trên nhiều ngành của Nhà
nước, của xã hội. Có 11 liệt sỹ cả trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến
chống Mỹ - chủ yếu là đời 20 và 21; có 01 mẹ Việt Nam anh hùng. Xa quê, xa tổ,
phân nhánh này vẫn góp công, góp sức viết tiếp trang sử vàng của dòng họ - rất
đáng kính trọng.
Hàng năm con cháu các nơi tụ về làng
Hạ làm giỗ Tổ vào ngày rằm tháng giêng. Về làng Hạ là về với nguồn cội. Ai ai
cũng muốn về. Hằng năm thay nhau mà về. Về để báo công lên Tiên Tổ.
Chi nhánh của
cành 1 họ Lê Hữu ở làng Hạ hằng năm vào ngày 10 tháng giêng đội lễ về làng Vệ
Yên - xã Quảng Thắng để làm giỗ Tổ, gọi là giỗ Đại Thủy Tổ họ Lê Hữu. Theo
truyền thống tâm linh, bát hương Đại Thủy Tổ họ Lê Hữu về làng Vệ Yên từ năm
1527 khi chạy loạn nhà Mạc, cụ Lê Thiện về ẩn quan ở Vệ Yên và bát hương Đại
Thủy Tổ cũng đưa về từ đó. Phân nhánh của cành 1 về chịu giỗ ở Vệ Yên với lý do
nguồn cội như vậy.
Phân nhánh này có sơ đồ phả hệ và
lý lịch riêng.
* GIA PHẢ CÀNH BỐN - Quỳnh Lưu, Nghệ An
(Chưa có tư liệu để cập nhật, xin thành thật cáo lỗi)
họ lê hữu nhà e ở quỳnh lưu đây ko biết phải cành 4 ko/
Trả lờiXóaThế nhà ông lê hữu ky ở vệ yên sao ko có tên trong gia phả? Bác tác giả đăng bài thiếu ạ???? Nhà cháu đông lắm mà ko có tên ai
Trả lờiXóahttp://leba.likesyou.org/?i=1
Trả lờiXóađây là gia phả họ Lê Bá của mình tại Thừa Thiên Huế có lịch sử gần 1000 năm