Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014

Gia phả họ Lê Hữu

GIA PHẢ HỌ LÊ HỮU

Mục này, xin được phép tạm chia làm 2 phần
- Phần 1: Bản dịch Gia phả gốc (tứ đại)
- Phần 2: Tân Gia phả (từ đời 17 trở đi )

Phần I: BẢN DỊCH GIA PHẢ HỌ LÊ HỮU
Bản dịch của ông Lê Hữu Ngân dịch t cuốn gia phả họ Lê Hữu

-----------

Người ta sinh ra phải có tổ và phải biết tổ, ví như nước có nguồn, cây có gốc. Tục ngữ có câu rằng:

"Chim có tổ, người có tông"

Nếu không biết tổ tông ra thế nào thì cũng như: nước không có nguồn, chim không có tổ vậy.

Gia phả họ Lê Hữu chúng ta viết bằng chữ Hán, có lai lịch rõ ràng. Bây giờ chữ Hán ít dùng, không mấy người học, nếu không dịch ra quốc ngữ thời sau này không ai biết mà tìm ra sự tích của tổ tiên nhà mình. Vậy tôi đem bản gia phả chính mà dịch ra quốc ngữ, để về sau con cháu biết sự tích và húy kỵ của tổ tiên mà gìn giữ. Ai là con cháu, xin sao mỗi nhà một bản mà xem, biết rõ sự tích họ nhà mình và lăng mộ của tổ tiên cho khỏi thất lạc.
Thôn Vệ Yên ta thời Lê Triều là Kiều Đại giáp, Vệ Yên giáp thuộc xã Bố Vệ. Lê Trung Hưng thì thôn Vệ Đà được dòng họ Lê, Đàm, Đỗ, sang khai khẩn mới gọi là thôn Vệ Yên. Đến Nguyễn Triều mới tháp thôn Vệ yên về huyện Quảng Xương, làng Kiều Đại ở Đông Sơn. Năm 1948 tháp 11 thôn làm xã Quảng Thắng.
Đức Thủy ... tổ họ Lê ta tên ngài là Lê Cư, tước ngài là Hoằng Quang Vương, Ngài là chú ruột của Vua Lê Anh Tông (tục gọi là Vua chú Chổm), mà ngài là cháu thứ sáu đời đức thái tổ Lê Trừ, mà đức Lê Trừ là anh ruột vua Thái tổ là Lê Lợi.
Đức Tằng tổ của ngài Lê Trừ là cụ Lê Hối, người thôn Như áng thuộc phủ Thọ Xuân bây giờ. Khi ông Lê Lợi lên làm vua, truy tôn ngài là Triệu Tổ Cao Hoàng Đế. Tính ngài ngay thẳng, chỉ đi dạy học, lấy bà Nguyễn Thị Ngọc Duyên, thôn Quần Đội, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân), truy tôn là Phổ Từ Hoàng Thái Hậu.
Khi thư thả ngài thường đi chơi ở dưới núi Lam Sơn, thấy một chỗ có nhiều quạ đỗ, ví như là người tụ hội, ngài biết là chỗ này đất tốt, liền đem nhà đến đó ở (có chỗ gọi là Du Sơn, cõ chỗ gọi là Quế Lâm). Trong ba năm mà thành cơ nghiệp, là một ông quan lang khai canh, lập ấp ở đó.
Ngài sinh ra ông Lê Đinh, truy tôn là tuyên hổ phác Hoàng Đế. Ngài theo cơ nghiệp của cha mà làm, kẻ xa người gần đều kính phục, đày tớ trong nhà đến một ngàn người. Ngài lấy bà Nguyễn Thị Ngọc Quách thôn Xuân Lan, truy tôn là Chính Từ - Hoàng Thái Hậu. Sinh ra hai con trai, con cả là ông Lê Tòng (không con) thứ hai là Lê Khoáng. Ông Lê Khoáng tôn là Hiển Tổ Thạch Hoàng đế, bà vợ là Trịnh Thị Ngọc Thương, truy tôn Hiển Từ Hoàng Thái Hậu. Ngài có lòng nhân từ, ai cũng yêu mến, bà thì siêng năng, càng ngày càng giàu thêm.
Ngài sinh ba con trai, con cả là ông Lê Học, mất sớm, truy tôn là Tuyên Hiếu Vương, bà vợ truy tôn là Thận Uy Thái Phi, con trai là ông Lê Thạch theo đức Thái tổ đi khai quốc bị tên bắn lạc mà mất, truy tôn Trung Dũng Vương.
Con thứ hai là ông Lê Trừ (Húy Trà) phong tước là Hoằng Dụ vương Lam Quốc Công.
Con rốt là ông Lê Lợi (tức là vua Lê Thái Tổ). Khi chưa sinh ông Lê Lợi thì trong làng có một con hổ đen đến ở, hơn mười năm, không hại người, không hại vật, về sau người ta quen đi không sợ nữa, đến khi sinh ông thì hổ ấy đi đâu mất.
Khi sinh ông thì trong nhà mùi hương thơm nức, hào quang tỏa sáng ánh cả nhà, có bốn bà vú đến, tắm xong đặt ngài lên giường thì  bốn bà vú cũng đi đâu mất.
Ông Lê Lợi là người anh tuấn, mắt sáng như sao, miệng rộng, mũi to, người cao sáu thước, vai bên tả có bảy nốt ruồi đen, tướng đi như long, như hổ, lông mao mọc khắp mình, tiếng như chuông đồng, ngồi như hổ ngồi xổm, thấy tướng ai cũng bảo là người quý. Ngài rất thông minh, khỏe mạnh, có mưu cơ, là một bậc phi thường.
Năm Nhâm Thân ngài 28 tuổi, ngày mồng 10 tháng giêng, sai người nhà đi cày ở động Phật Hoàng lăng thuộc động Chiêu Nghi. Người nhà thấy một vị lão tăng, mặc đồ trắng, ở địa phận làng ức Trai đi đến, trông ngược, trông suôi rồi nói rằng: "Đất này tốt lắm, không có ai mà cho" người nhà nghe nói, chạy về báo với ông. Ông liền tìm vị lão tăng ấy, đi đến thôn Quần Đội thấy có cái thẻ bằng tre đề rằng: "Thiên đức thụ mệnh, tái trung tứ thập, số chỉ dĩ đinh, tích tai vi cấp".
Ông thấy thế rất mừng, lại cố đi mau cho kịp, lúc ấy có rồng vàng che cho, ông liền gặp lại vị lão tăng ấy. Cụ bảo rằng: Tôi họ Trịnh hiệu là Bạch Thạch Sơn Băng, đi từ Ai Lao mà đến đây (ở chùa Tích Sơn nước Ai Lao). Thấy ông khí tượng khác thường, sau này sẽ làm nên cơ nghiệp lớn. Ông quỳ mà thưa rằng: Địa mạch của tôi, quý tiện thế nào xin tôn sư chỉ giáo.
Vị lão tăng bảo rằng: Xứ Phật Hoàng động Chiêu nghi có một chỗ ước nửa sào, hình như quả ấn vuông, tọa khôn, hướng Cấn, bên tả có núi Thái Thất đến núi Linh Sơn, ở trong có gò Tiên Hạn, lấy động Chiêu Nghi làm án, mặt trước có Long Sơn, trong có Long Hổ, đó là đất Loa Trương (ruột con ốc). Bên hữu có hổ thủy chạy quanh, phía ngoài có núi Xuyên Châu. Con trai thì quý khá không thể tả ra được, chỉ hiềm con gái thất tiết, con cháu sau ở phân cư. Sau này gặp thầy giỏi cất lại, lại trung hưng năm trăm năm nữa. (Chữ Hán viết là minh sư, không hiểu là thầy giỏi hay là quân nhà Minh). Về sau quân nhà Minh đào lên lại lấy về chôn lại. Ông liền đem mộ đức Hoàng Khảo táng vào đó. Đào sâu ba thước năm tấc thấy một pho tượng phật bằng đồng nhỏ và một cái hộp con, đem về núi Du Sơn mà thờ. Khi về đến địa phận Đao Xá thì sáng, lúc ấy mưa gió, sấm sét, trời đất tối tăm thì vị lão tăng đi đâu không biết.
Ngày sáu tháng giêng năm Giáp Ngọ, ông ba mươi tuổi, bà vợ là Trịnh Thị Ngọc Lữ ra vườn hái dâu, thấy có bốn cái dấu chân dài ba thước, rộng hai thước, lại thấy một khối đồng đỏ, trên có cột. Bà vợ gọị ông, ông chạy ra xem là bảo ấn, dài bảy tấc tám phân, rộng sáu tấc, tám phân, lớn một tấc bốn phân. Có chữ Thuận Thiên và chữ Lê Lợi. Trên lưng ấn có câu thần chú rằng :"Thượng đế sắc lệnh, bảo ấn thiên đình, giám chi nam việt, hách hách uy linh, chủ thiên sơn nhạc, khâm thụ lạnh hành, cấp cấp như luật linh". Ông biết là trời cho mình liền giấu đi, không cho ai biết.
Năm ất Mùi ông ba mươi mốt tuổi, đêm mồng mười tháng chạp, người làng Cổ Lôi Nguyệt Sơn là ông Lê Thận, đi đánh cá ở vực Lam Sơn, thấy dưới nước có hào quang bay lên trời. Đánh cả đêm không được con gì, chỉ được một thanh sắt hình như lưỡi kiếm, dài ba thước, rộng hai tấc, dày ba phân, có linh phù và thần chú rằng: "Thượng đế sắc lệnh, bảo ấn uy quyền, cử chỉ nhất động, hỏa chiếu vạn phương, sơn băng địa liệt, tặc phá thần tàng, cấp cấp như luật linh" ông Thận đem về quẳng vào xó nhà, rồi không để ý đến nữa.
Ông với ông Thận có tình bè bạn, nhân nhà ông Thận có kỵ, mời ông sang ăn kỵ, trong chỗ tối ông thấy có hào quang hiện ra, ông đến xem thấy thanh sắt ấy. Ông xin, ông Thận cho ngay, đem về nhà mài sáng, mới thấy có chữ Thuận Thiên, chữ Lê Lợi và linh phù, thần chú.
Năm Bính Thân ông ba mươi hai tuổi, ngày mười lăm tháng giêng, ông đi ra ngõ, thấy một cái cán kiếm bằng đồng đen, dài ba tấc, tròn ba tấc năm phân, đã mài dũa thành cái cán kiếm rồi, ông cầm lấy ngửa mặt lên trời mà khấn rằng: Nay người Tàu chiếm đất Việt, dân sinh cơ khổ, nếu trời cho tôi cứu vớt dân sinh, thì lưỡi kiếm kia với cái cán này liền nhau như một. Khấn xong ông về lấy lưỡi kiếm cắm vào cán, thời hai bên vừa khít nhau như là của một người làm ra, không kéo ra được nữa. Ban đêm có ánh sáng phát ra như bó đóm, ông biết là Thần Kiếm.
Hồi trước, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, thường bỏ thiếu triều cống nhà Minh. Năm Bính Tuất nhà Minh sai Trương Phụ Mộc Thạnh đem quân sang chiếm nước Nam, bắt cha con Hồ về Bắc Kinh, cho Lý Bân ở lại trấn ải nước Nam.
Gặp thời loạn ông ẩn nấp chốn Sơn Lâm luyện tập thao lược, chiêu đãi chí sĩ, chiêu tập lưu dân. Lúc ấy có người ở thôn Hào Lương là ông Đỗ Phú cùng ông có sự hiềm khích, kiện đến tướng nhà Minh, khám sét ra thì lý của ông phải, ông được kiện, ông Phú vì đó lại hiềm oán thêm, báo quân nhà Minh về bắt ông. Ông cùng ông Lê Liễn chạy đến bờ sông Khả Lam giang, thấy một thi hài đàn bà chết, mặc áo trắng, đeo xuyến vàng, ông cùng ông Liễn chôn đi và khấn rằng: "Cứu tôi thoát khỏi nạn này, sau lấy được thiên hạ sẽ lập miếu thờ". Đắp mộ vừa xong thì quân giặc đến, một đàn chó ngao đuổi đến. Ông cùng ông Liễn chạy không kịp, chui vào thân cây rỗng. Giặc cầm mác đâm vào trúng chân ông Liễn, ông Liễn lấy áo chùi lưỡi mác, khiến cho giặc không thấy dấu máu. Trong cây rỗng liền có một con cáo trắng nhảy ra chạy vào rừng, đàn chó ngao đuổi theo, giặc cũng đi theo đàn chó, ông thoát nạn. Sau phong bà Bạch Y là :"Hoàng Hựu Đại Nương".
Cây rỗng phong là "Hộ Quốc Đại Vương".
Lúc ông khởi nghĩa binh ở Lam Sơn, có người nước Ai Lao là ông Trịnh Đồ đem bốn con voi và một lá cờ vàng đến rước ông. Voi phấn đỏ hoa trắng gọi là: "Phi thiên tượng". Sau phong cho ông là "Đồ Tước Thái Bảo Dũng quận công" . Ông Đồ giúp ông thành công rồi cả người và voi đi đến núi Yên Tử thì bay đi mất, bèn làm chùa thờ ở đó, gọi là "Thiên Nhật Tự".
Ông khởi nghĩa binh ở Lam Sơn vào ngày tháng giêng năm Mậu Tuất. Năm ấy ông ba mươi tư tuổi. Ngày mười sáu tháng giêng có thằng Ai ở làng Nguyệt ấn cùng ông Đỗ Phú dẫn quân giặc về đào mả ông thân của ông ở Động Chiêu Nghi, lấy quan tài buộc vào thuyền, đem về để dụ ông về hàng. Ông sai ông Trịnh Khả, ông Lê Bí đi thuyền thúng theo đến sông Đao xá, nhân lúc giặc ngủ, lấy trộm đem về táng vào chỗ cũ. Thằng Ai lại dẫn quân giặc tập công ông, bắt được nhiều gia hạ. Lúc ấy quân ông không có chí chiến đấu, chỉ có bọn ông Lê Lễ, Lê Bí, Lê Xí, Lê Đạt đi theo ông đến núi Linh Sơn, hết lương hai tháng, đợi cho giặc lui mới về Lam Sơn đắp hào lũy, chiêu tập tàn quân, lúc ấy thế giặc đang mạnh, ông chiêu tập tướng sĩ lại, khiến ai thay mình nạp cho giặc, để làm cách hoãn binh. Chủ tướng không ai dám nhận, có ông Lê Lai tình nguyện thay ông, liền mặc áo của ông chạy vào vị trí quân giặc, tự xưng là Lam Sơn động chúa. Giặc bắt ông Lai giết đi. Từ đó giặc không để ý đến, ông Lợi mới giữ được Lam Sơn, càng ngày càng mạnh thêm. Trong mười năm đánh hơn bảy mươi trận.
Năm Đinh Mùi, Yên Viễn Hầu nhà Minh là Liễu Thăng đem bảy vạn hùng binh sang cứu bọn Lý Bân, ông đánh, giết Liễu Thăng ở núi Mã Yên Sơn, bình được giặc Ngô, yên được nước Việt.
Năm Mậu Thân phong công thần hơn hai trăm người.
Hạng nhất là bọn ông Lê Vấn năm mươi hai người
Hạng nhì là bọn ông Lê Bổ bảy mươi hai người
Hạng ba là bọn ông Lê Lễ chín mươi tư người
Ngày mười bốn tháng tư năm Mậu Thân (1428) vào giờ Tý ngài lên ngôi vua ở Thăng Long, tự xưng là Tuệ Văn Anh Vũ Đại Vương, hiệu là Lam Sơn Động Chúa, nhất thống thiên hạ. Định ra luật lệnh chế lễ nhạc, khoa mục, cấm vệ, quan chức, phủ huyện... Đáng là một vị vua minh quân; có Ai Lao và Chiên Thành - năm nước triều cống.
Năm Tân Hợi vua nhà Minh phong cho ngài quyền thụ An Nam Quốc Sư (trong quốc sử chép là An nam Quốc Vương) từ năm ấy về sau triều cống luôn ...
Ngày hai hai tháng tám năm Quý Sửu (22/8/1433) ngài mất ở chính diện Đông Kinh, ngài làm vua sáu năm, thọ bốn chín tuổi, con là vua Thái Tôn lên ngôi, truyền đến Lê Cung Hoàng thì nghịch thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi, thông trình mười đời vua được một trăm mười lăm năm.
Năm Nhâm Thìn 1532 ông Nguyễn Kim rước ông Ninh con của vua Chiêu Tôn lên làm vua, hiệu là Trang Tôn truyền đến vua Trung Tôn. Vua Trung Tôn mất, không có con nối ngôi.
Quan thượng thư họ Nguyễn ở làng Thịnh mỹ, đêm nằm mộng thấy vua vào nhà. Ngày mai quả thấy một người vào nhà xin lửa, y như là ban đêm thấy trong mộng. Hỏi mãi mới biết ông là Lê Duy Bang, cháu thứ bảy đời ông Lê Trừ (anh ruột vua Thái Tổ). Khi vua Trung Tôn mất, ông bàn với Trịnh Kiểm rước lên làm vua hiệu là Anh Tôn Tuấn Hoàng Đế.
Ngài là con ông Lê Cơ, cháu ông Lê Trầm, chắt ông Lê thiện. Ông Lê Thiện nhân gặp loạn nhà Mạc, cùng cháu ông Đỗ Đại (Đinh Quốc Công) là ông Đỗ án, trốn về giáp Vệ Yên, xã Bố Vệ huyện Đông Sơn. Sinh ra ông Trầm, ông Trầm sinh ra sáu (6) người con trai, gặp lúc đói chết đi chỉ còn hai người là ông Lê Cơ, Lê Cư. Ông Lê Cơ lấy bà Trần Thị Phác, rời sang ở giáp Kiều Đại rồi sinh ra ngài. Ngài nhà nghèo, thường đi hái củi, đánh cá để nuôi mẹ (cha chết).
Năm ngài ba mươi mốt tuổi, lên rừng hái củi, rồi chở thuê cho người ta. Về đến địa phận làng Thịnh Mỹ bị mưa to, gió lớn, phải cắm bè ở đó. Làng ấy có quan thượng thư họ Nguyễn đã về hưu trí, đêm ấy nằm mộng thấy có người bảo rằng: "Mai có thiên tử đến nhà, ngài đội nón sắt, ngự cối say, nên nghênh tiếp cho long trọng". Sáng mai có người hàng bè vào nhà xin lửa. Trời mưa không có nón, lấy cái chảo bằng gang mà đội, có mấy con chó chạy ra cắn, ngài sợ, nhảy lên cái cối xay lúa mà ngồi. Lúc ấy quan thượng thư mới hiểu là: Ngự cối xay, đội nón sắt.
Quan Thượng thư hỏi lai lịch và chỗ ở, rồi ngài tra xét, dò thám mãi mới biết là nòi giống của cụ Lê Trừ. Khi ngài ba mươi sáu tuổi, vua Trung Tôn mất, không có con trai nối ngôi. Ông bàn với chúa Trịnh Kiểm rước về làm con cháu lâu dài.
Ông Lê Cư là em ruột ông Lê Cơ, chú ruột vua Anh Tôn, là cháu thứ sáu đời ông Lê Trừ, mà ông Lê Trừ là anh ruột vua Thái Tổ, ngài cũng có công khai quốc, phong Lam Quốc Công, khi mất truy tôn Hoằng Dụ Vương, có lập Hoằng kính điện ở thôn Thái Lai, đồng thôn phụng sự. Bà vợ Lê Thị Ngọc Lăng, người thôn Thái Lai, truy tôn Trinh Cẩn Thái Phi.
Ngài sinh ra ông Lê Khôi - Con cả, gia phong Chiêu Trung Vương, tặng phong Võ Mạc Hầu, con cháu ở xã Ngọc Chuế phủ Hoằng Hóa.
Con thứ hai là ông Lê Khang, tặng phong là Quỳ Quốc công, truy tôn Hiển Công Vương, vợ là Lê Thị Ngọc ái, truy tôn Đoan úy Thái Phi. Ngài sinh ra ông Lê Khanh, truy tôn là là Quang Nghiệp Vương, vợ là Lê Thị Ngọc Đoan, truy tôn là Đoan Thuận Thái Phi. Ngài sinh ra ông Lê Thiện, truy tôn là Trang Giãn Vương, vợ là Lê Thị Ngọc Tuệ, truy tôn là Tuy Lý Thái Phi. Ngài sinh ra ông Lê Trầm - có chỗ viết là Lê Qương, ở trong sử lại viết là Lê Tiên, phong Đông Lâu Bá, sau truy tôn Hiển Tôn Nhân Hoàng Đế, vợ là Phạm Thị Ngọc Lân, truy tôn Từ Khâm Hoàng Thái Hậu. Ngài sinh ra sáu (6) người con trai, gặp lúc loạn lạc, đói khổ chỉ còn hai (2) người là ông Lê Cơ và ông Lê Cư.
Ông Lê Cơ lấy bà Trần Thị Phác, giáp Kiều Đại và sang ở giáp Kiều Đại, sinh ra ông Lê Duy Bang - vua Anh Tôn. 
Ông Lê Cư ở nguyên giáp Vệ Yên, sinh ra ông Lê Lân. Khi vua Anh Tôn lên ngôi phong cho chú tước Hoằng Quang Vương, em là Lê Lân- Minh Mẫm Vương - mộ hai ông ở Cồn ổi.
Ông Lê Lân sinh ra ông Lê Đạt, làm quan Tư Mã Tham Chính tỉnh Nghệ An, vợ là Trịnh Quý Thị hiệu Từ Hoan. Đến đời vua Lê Kính Tông niên hiệu Hoằng Định 1601 - 1619, ban cho ông Lê Đạt bảo quản giáp Vệ Yên.
Đến năm Canh Ngọ, ông cùng ông họ Đàm, họ Đỗ sang ở đất Đà Yên - Vệ Đà mà khai khẩn đất ấy. Từ đó con cháu ba họ càng ngày càng nhiều.
Bản dịch và sao chép lại đến đây thì dừng lại. Phần tiếp là húy kỵ - tôi không hiểu lắm, vì cơ bản mới của cành một và cũng thiếu, vậy tôi dừng chép. Tôi nghĩ con cháu nhớ và biết đến cụ Tứ đại đã tốt lắm rồi. Còn lại xin mời các cụ về Từ đường - Họ - Họ sẽ phụng thờ.
Sao chép y bản gốc. Viết rõ ràng dễ xem mong được nhiều người xem. Người xem là người uống nước để nhớ về nguồn./.
Người sao chép Lê Hữu lâm
Đời hai mươi - Cành nhì
Thôn Vệ Yên


PHẦN II: TÂN GIA PHẢ (từ đời thứ 17)


Tân Gia phả họ Lê Hữu hiện tại mới có:
- Phả đồ 12 đời (treo tại nhà thờ họ Lê Hữu)
- Gia phả từ đời thứ 17/18 trở đi

Do gia phả mới được thống kê lại từ năm 2001-2008 Do Ông Lê Hữu Công và Ông Lê Hữu Lâm (Hậu duệ đời thứ 20-họ Lê Hữu) ghi chép lại (một phần dựa vào cuốn gia phả gốc và 1 phần dựa vào lời kể của các cụ cao niên đời thứ 19, 20) nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp, bổ sung của con cháu trong dòng họ.


* PHẢ ĐỔ 12 ĐỜI HỌ LÊ HỮU
(tư liệu được chụp tại nhà thờ họ Lê Hữu)

                                 
     * GIA PHẢ CÀNH NHẤT

1. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ CẦN

Đời 18:                                  Chi nhánh cụ Lê Cần                              Cành nhất 

 

Đời 19:             Lê Vơng                Lê Ong               Lê Dập                  Lê Dềnh
        (Vô tự)
Đời 20:  Dũng   Dung    Giống           Lê Ngân                                      Lê Được
                    (Vô tự )      (Vô tự)        (Vô tự)
Đời 18: Cụ Lê Cần, kỵ 6 -9, mộ ở Bãi Xển - Yên Viên. Cụ bà huý là Bơi, kỵ 11- 2 mộ ở đồng Sốc. Hai cụ có 4 người con trai là Vơng, Ong, Dập, Dềnh và 2 người con gái là Bồi, Bọng (Bọng chết trẻ).
Đời 19: Cụ Lê Vơng, kỵ 14 - 8, cụ Bà kỵ 04 - 11, 2 mộ ở mã xã, hai cụ có 3 con trai: Dung, Giống đều vô tự, 4 con gái Ngai, Vực, Ngờ, Cẩn. Riêng Cụ Dũng có con trai là Cận, mẹ con đem nhau đi biệt tích nên trong gia phả cũng ghi là vô tự. Kỵ 28 - 10, mộ ở mã xã.
Đời 19: Cụ Lê Ong, kỵ 26 - 01 mộ ở Cồn ổi. Cụ bà Đỗ Thị Ngăn, kỵ 17 - 12, mộ Mã Xã. Khi cụ ông mất cụ bà mới 24  tuổi ở vậy nuôi con, cho nên họ Mạc rất quý trọng. Hai cụ có 1 một người con trai duy nhất là Lê Hữu Ngân.
Đời 19: Cụ Lê Dềnh. Có 1 người con trai là Lê Được.
Đời 20: Lê Hữu Ngân, kỵ 20 -6 - 1957, mộ ở Mã Xã. Trước năm 1945 ông làm việc ở phủ Quảng Xương, phủ Như Xuân, sau đó về sống ở Thôn Vệ Yên. Về làng ông được bầu làm Lý trưởng. Trước chính sách thuộc địa của Pháp, với lòng thương dân, (Người làng, người họ) 3 tháng sau khi bầu Lý trưởng, ông đã làm đơn xin nghỉ. Ông có 4 người vợ:
* Bà cả Lê Thị Cạp: Dòng họ Lê Đình, kỵ 14 - 2, mộ ở Cồn Sốc, bà có 2 con gái là Lê Thị Đơi, Lê Thị Đây.
* Bà hai Đỗ Thị Điền: Kỵ 5 - 5, mộ ở Mã Xã, cụ là người Mâu Xá, xã Đông Minh, sinh ra Lê Hữu Tờn.
* Bà ba không nhớ tên lấy ông Ngân, sinh 8 lần đều không nuôi được, bà tự nguyện xin về quê ở Quảng Giao, Quảng Xương. Sau này bà đi bước nữa và sinh được 1 người con gái.
* Bà tư Hồ Thị Mai: Người Quỳnh Đôi - Quỳnh Lưu - Nghệ An. Cụ thân sinh ra bà Mai làm nghề bốc thuốc ở làng Vệ Yên, nên đã gả bà Mai cho ông Ngân. Bà Mai sinh được 2 con gái và 3 con trai: Lê Thị Lý, Lê Thị Lài (Chết trẻ), Lê Hữu Tài (Liệt sỹ), Lê Hữu Lộc, Lê Hữu Quang.
Đời 20: Lê Hữu Được, kỵ 11- 1 - 1986. Bà là Phạm Thị Dăn người cùng làng. Ông bà có 4 con: Lê Thị Thược, Lê Thị Thảo, Lê Hữu Toàn (Liệt sỹ), Lê Hữu Thắm.
Đời 21: Lê Thị Đơi, lấy chồng người cùng làng là Trần Văn Am, có 1 con gái.
Đời 21: Lê Thị Đây, lấy chồng cùng làng là Đỗ Khắc Thờn có 5 con trai, 2 con gái.
Đời 21: Lê Hữu Tờn: Sinh năm 1941, đi công nhân mỏ Crom Cổ Định, đi bộ đội Chống Mỹ cứu nước năm 1967, đến năm 1974 chuyển ngành về mỏ Crom, sau đó chuyển lên mở Thiếc Sơn Dương, Tuyên Quang. Vợ là Nguyễn Thị Tâm, người vùng Đồng Bằng Bắc Bộ, định cư và làm công nhân ở mỏ Thiếc Sơn Dương. Có 3 con trai: Lê Tuấn, Lê Quý, Lê Quân. Cả gia đình hiện sống ở Tuyên Quang.
Đời 21: Lê Thị Lý lấy Nguyễn Công Ba, người làng Bố Vệ, đi bộ đội đánh Mỹ về hưu với cấp hàm Thượng Uý, có 3 con gái và 1 con trai là Nguyễn Thế Anh
Đời 21: Lê Hữu Tài  đi bộ đội đánh Mỹ năm 1966 hy sinh ngày 31/7/1968 ở chiến trường Tây Ninh. Năm ấy là năm Mậu Thân nhuận 2 tháng 7. Ngày 31/7 dương là ngày 7/7 đầu của năm Nhuận Mậu Thân.
Đời 21: Lê Hữu Lộc. Công nhân của Xí nghiệp thiết bị Trường học thuộc Sở giáo dục Thanh Hoá, đi bộ đội năm 1965, tham gia quân tình nguyện chiến đấu ở chiến trường Campuchia, được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam ở vùng 4 Hải quân. Năm 1981 chuyển ngành về Xí nghiệp thiết bị trường học của Sở giáo dục Thanh Hoá. Sau gần 7 năm công tác trong quân đội, ở vùng 4 Hải quân, chủ yếu sống ở Cam Ranh thuộc lực lượng thuỷ quân đánh bộ, địa bàn chiến đấu vùng ven biển Campuchia - toàn những nơi nguồn nước độc hại nên Lê Hữu Lộc đã bị dầm bệnh nặng. Trở về cơ quan cũ trong nền kinh tế bao cấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn, kinh tế eo hẹp, bệnh trọng trỗi lên cướp đi sinh mạng sống của anh ngày 26/3/1994. Vợ là Lê Thị Chanh dòng họ Lê Đình người cùng làng làm ruộng có 2 con Lê Hữu Văn, Lê Thị Duyên.
Đời 21: Lê Hữu Quang - 1957 Đảng viên ĐCSVN tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm Thanh Hoá năm 1981. Năm 1982 làm Hiệu trưởng Trường THCS Thanh Quân Như Xuân. Năm 1990 tốt nghiệp khoa toán Trường Đại học Sư phạm 1 Hà Nội; Năm 1996 hiệu trưởng trường THCS Nguyễn Du - Quảng Xương. Năm 2005 học Cao học chuyên ngành quản lý giáo dục. Vợ là Lê Thị Lợi - 1961 dòng họ Lê Đình, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, năm 1986 tốt nghiệp sư phạm 12 + 2. Năm 2005 tốt nghiệp Đại  học sư phạm Vinh, có 2 con là: Lê Mỹ Trang và Lê Hoàng Tùng.
Đời 21: Lê Thị Thược - 1955, chồng là Nguyễn Văn Sang, người làng Mật, Đông Vệ, làm ruộng, có 3 con trai, 1 con gái.
Đời 21: Lê Hữu Toàn - 1957, đi bộ đội 1977, hy sinh ở chiến trường Biên giới Tây Nam năm 1978.
Đời 21: Lê Thị Thảo - 1960: Làm ruộng, chồng là Phạm Tiến Dũng, người làng Mật, Đông Vệ, công nhân nhà máy cưa về chế độ một lần, có 2 con trai.
Đời 21: Lê Hữu Thắm - 1963: Làm ruộng, vợ là Lê Thị Yến dòng họ Lê Đình, làm ruộng ở quê, có 2 con gái: Lê Thị Hoa, Lê Thị Lan.


2. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ NHỚI VÀ LÊ ĐỚI - cành nhất

Đời 17:                                   Chi nhánh cụ Lê Kiên                  Cành nhất
Đời 18:                            Lê Nhới                                     Lê Đới


 
Đời 19:         Lê Giới        Lê Rêu      Lê Quẹn         Lê Đoái      Lê Khiến
                                                         (Vô tự)                                                (Vô tự)
Đời 20:   Dụ      Duệ      Giất          Liễn       Diễn              Câu    Đặng    Cường
                                                    (Chết bệnh)                                 (Vô tự)                     (Chết trẻ)
Đời 17: Ngày xưa gia phả chỉ ghi con trai, không ghi ngày sinh tuổi thọ; thường lấy tên con trai cả gọi thay tên bố mẹ. Ví dụ: Cụ Mốc khi đi công tác đổi tên là Kiên, dân làng gọi bố là ông Kiên, gọi ông là cụ Kiên; vì vậy đời 17 có Cụ Kiên, đời 19 có Lê Kiên. ở chi nhánh này phân tích chủ yếu 2 người là cụ Nhới và cụ Đới.
Đời 18: Cụ Lê Nhới trong gia phả cành nhất còn gọi là Lê Hữu Tĩnh, huý là Luyến, kỵ 29 - 4, mộ ở Mã xã. Cụ bà là Đàm Thị Xuyên người cùng làng, kỵ 8 - 8  mộ cũng ở Mã xã, 2 cụ có 5 con trai là: Lê Mốc (Lê Kiên), Lê Meo (Lê Giới), Lê Rêu, Lê Quẹn và Lê Chiềng (Chết trẻ), 2 con gái là Lê Thị Vó, Lê Thị Coọng.
Đời 18: Cụ Lê Đới kỵ 30 - 10, cụ bà là Trần Thị Mai kỵ 2 - 3. Các cụ có 2 người con trai là Lê Đoái và Lê Khiến. Cụ Lê Đoái đi phu đồn điền cho Pháp ở Tây Nguyên, không về trong gia phả ghi vô tự.
Đời 19: Lê Mốc (Lê Kiên) đi lính tinh binh làm chức chánh đội. Trong cuộc khởi nghĩa chống Pháp bị thất bại cụ đã tự tiết ngày 18 - 8.
Đời 19: Lê Meo (Lê Hữu Giới) đi lính tinh binh 3 năm làm chức chánh đội, sau đó về làm công sở Bưu điện Quảng Nam, 25 năm trước cách mạng tháng 8. Khi cách mạng tháng 8 thành công cụ về làm ở Bưu điện Thanh Hoá. Kỵ 15 - 4. Cụ bà Nguyễn Thị Bân làm ruộng có 3 con trai, 2 con gái: Lê Thị Hiểu, Lê Dụ, Lê Duệ, Lê Giất và Lê Thị Liên - Lê Thị Liên chết trẻ.
Đời 19: Lê Hữu Rêu không có con trai, ghi là vô tự kỵ 20 - 8
Đời 19: Lê Thị Vó lấy chồng làng dòng họ Phạm, con trai là Phạm Văn Kênh.
Đời 19: Lê Hữu Quẹn có 2 vợ: Bà cả là: Lê Thị Nghe, dòng họ Lê Viết, có con trai là Lê Liễn và 3 người con gái là Hộ, Hạng, Hệnh.
Ông Liễn đi bộ đội chống Pháp là cán bộ quân giới phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, bị ốm về bệnh viện vùng  tự do ở Thanh Hoá, điều trị và chết ở đó.
Bà hai là Phan Thị En - Người Nghệ An sinh ra ông Lê Diễn.
Đời 19: Lê Thị Coọng lấy chồng làng họ Lê Đình, sinh 2 con gái: Chuộng, Luộng.
Đời 19: Lê Khiến kỵ 18 - 4, cụ bà là Đỗ Thị Bòng kỵ 12 - 6. Hai cụ có 3 con trai và 1 con gái: Lê Thị Với, Lê Câu, Lê Đặng, Lê Cường, Lê Thị Bế ông Lê Cường chết trẻ trước năm 1945. Bà Bế đi thanh niên xung hy sinh 1966, mất hết giấy tờ nên chẳng được chế độ gì.  Bà Với lấy chồng làng họ Lê Viết có 01 con trai, 07 con gái.
Đời 20: Bà Lê Thị Hiểu sinh năm 1927 trong 1 gia đình công chức của chế độ cũ, có nền kinh tế khá giả ở trong làng, nên bà được bố mẹ cho đi học, có học vấn khá. Khi cách mạng tháng 8 thành công bà tham gia liên hiệp Phụ nữ huyện Quảng Xương. Năm 1946 bà bị chết vì bệnh dịch tả.
Đời 20: Ông Lê Dụ sinh năm 1932, kỹ sư - Phó Giám đốc Bưu điệnThanh Hoá - Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đã nghỉ hưu. Bà là Đỗ Thị Ân, sinh năm 1936. Ông bà có 1 con gái là Lê Thị Anh và 4 con trai: Tuấn, Nguyên, Hùng, Mạnh.
* Lê Thị Anh - 1959: Saukhi tốt nghiệp khoá Trung cấp Bưu điện truyền thanh về Bưu điện Thanh Hoá làm việc  và là đảng viên - Đảng CSVN. Chồng là Nguyễn Thanh Phong, quê ở Quảng Chính - Quảng Xương cũng là cán bộ Bưu điện có nhiều năm và nhiều lần đi tu nghiệp ở nước ngoài về chuyên môn. Có 2 con trai.
* Lê Tuấn - 19...... : Cán bộ kỹ thuật Bưu điện Tỉnh Thanh Hoá. Vợ tên là Hà, quê ở Quảng Xương, giáo viên Tiểu học, có 1 con trai và 1 con gái.
* Lê Nguyên -19 .... : Công nhân kỹ thuật bưu điện Hà Nội, chết năm 2007, vợ Dương Thị Nga, công nhân Công ty xăng dầu khí ga Thanh Hoá, có 2 con gái.
* Lê Hùng - 19 ...... : Lái xe ở làng. Vợ tên là Dung làm ruộng, 2 con trai.
* Lê Mạnh - 19 ..... : Công nhân kỹ thuật Bưu điện Hà Nội, vợ là Nguyễn Thị Thành, giáo viên THCS ở Hà Nội.
Đời 20:  Lê Trung Duệ -1935: Cử nhân sư phạm Vinh -  Hiệu Trưởng trường Cấp 2 Hậu Lộc, chuyên viên của Sở Giáo dục Thanh Hoá về hưu, Bà là Trần Thị Lới - 1935 làm ruộng ở quê, có 3 con trai, 2 con gái.
* Lê Dũng -1961: Công nhân lái máy kéo về chế độ 1 lần. Vợ Đỗ Thị Hương - 1961, công nhân cơ điện, 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Thị Dung - 1963: Cán bộ kỹ thuật bưu điện Thanh Hoá - đảng viên ĐCSVN. Chồng Nguyễn Văn Thái 1956 - đồng nghiệp, 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Tùng - 1967: Trưởng Trạm viễn thông Như Thanh. Vợ là Lê Thị Vinh, quê ở Như  Thanh, lao động tự do, 1 trai, 1 gái.
* Lê Thị Xuyến -1971: Công nhân kỹ thuật Bưu điện Thanh Hoá. Chồng là Lê Ngọc Sáu -1963, quê Thiệu Giang, Thiệu Hoá, cử nhân ngành Bưu chính viễn thông, đảng viên ĐCSVN.
* Lê Tiến -1976: Kỹ sư, cán bộ tổng đài Bưu chính viễn thông Bỉm Sơn.
Đời 20: Ông Lê Giất -1937: Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, kỹ sư -Phó giám đốc Trung tâm bưu  chính viễn thông khu vực Miền Bắc, Uỷ viên Thường trực, Ban thông tin Miền núi, Biên giới Hải đảo của Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam - về hưu. Bà là Đỗ Thị Bích Hồng, có 2 con trai Lê Hiệp, Lê Hoà, 1 con gái Lê Thị Hồng Hạnh.
* Lê Quang Hoà -19 .... : Trung tâm viễn thông 1 Hà Nội, vợ là VũThị Bình - 19 ..... : Cử nhân giáo viên ngoại ngữ, có 1 con trai.
* Lê Quang Hiệp -19 ..... : Đảng viên ĐCSVN, Kỹ sư, Bưu điện Hà Nội. Vợ Nguyễn Thị Hiền -19 .... : Kỹ sư Bưu điện Hà Nội.
* Lê Thị Hồng Hạnh -19 .... : Kỹ sư kinh tế, thạc sỹ Ngoại ngữ. Chồng là Hoà - 19 ..... : Kỹ sư cơ khí Hà Nội.
Đời 20: Lê Diễn - 1935: Đảng viên ĐCSVN trong kháng chiến chống Pháp ông làm văn thư cho Huyện uỷ - huyện Quảng Xương. Trong kháng chiến chống Mỹ ông đảm đương nhiều chức danh ở xã và cuối cùng là Chủ tịch UBND xã Quảng Thắng, kỵ ngày 20 -6 -1986. Bà là Nguyễn Thị Nhâm, người cùng làng làm ruộng, có 3 con trai và 2 con gái.
* Lê Hữu Trường Thành -1955: Làm ruộng ở quê. Vợ là Nguyễn Thị Sửu, người Quảng Minh - Quảng Xương, con là Lê Thị Xuân, Lê Đức Quang, Lê Đức Lực, Lê Thị Hương.
 - Lê Thị Xuân có chồng là Nguyễn Ngọc Hùng - có 2 con trai.
* Lê Hữu Chung -1958: Nhập ngũ vào quân đội  năm 1978, hy sinh ngày 03/01/1979 ở Chiến trường Cam - Pu - Chia.
* Lê Thị Liên - 1960: Trung cấp Bưu điện Công tác ở Bưu điện Triệu Sơn. Chồng là Liêm, quê ở Triệu Sơn đi bộ đội chiến đấu ở chiến trường Cam - Pu - Chia. Sauđó phục viên về làm ruộng ở quê, có 2 con trai.
* Lê Hữu Minh - 1967: Vợ là Đỗ Thị Chanh, làm ruộng ở quê, có 2 con: Lê Thanh, Lê Thị Tâm.
* Lê Thị Vinh - 1969: Chồng là Lê Đình Hùng làm ruộng ở quê, con là Lê Đình Tuấn, Lê Đình Tú.
Đời 20: Ông Lê Câu - kỵ 19 - 10 - 2002, Bà là Phạm Thị Viết, ông bà chỉ có 1 người con gái duy nhất là Lê Thị Trung, lấy chồng dòng họ Phạm.
Đời 20: Lê Hữu Đặng -1934: Đi bộ đội, chuyển ngành về Công ty lâm sản Thanh Hoá là Phó phòng tổ chức, về hưu. Bà là Đỗ Thị Vuông -1935 làm ruộng ở quê. Ông bà có 9 con: 6 trai, 3 gái.
* Lê Thị Lan  - 1956: Đi bộ đội sau chiến tranh, được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam, phục viên về quê làm ruộng. Năm 2004 là Bí thư chi bộ có 2 con trai, 1 con gái. Chồng là Lương Văn Nhiên, quê ở Hoàng Hoá, định cư ở Vệ Yên, làm ruộng.
* Lê Thị Thuý -1959:  Lấy chồng là Nguyễn Văn Tuyến ở làng Yên Biên, có 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Thị Hà - 1961:  Công tác ở Công ty Môi trường Thị xã Sầm Sơn, chồng là Trương Văn Vang - Chánh văn phòng Thị uỷ Sầm Sơn. Có 2 con trai, 1 con gái.
* Lê Thế Hải - 1965: Vợ là Phạm Thị Xuân, người xóm Bắc đi vùng kinh tế mới EAKA Buôn Ma Thuật - 4 con gái.
* Lê Duy Hưng - 1969: Là anh sinh đôi của Lê Thanh Nam. Năm 2004 là Phó Công an xã, vợ là Phạm Thị Xuân làm ruộng, 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Thanh Nam: Em sinh đôi của Lê Duy Hưng - 1969. Vợ là Trần Thị Yên làm ruộng, có 3 con gái.
* Lê Tuấn Đạt - 1971: Vợ là Phạm Thị Thắng - có 1 con.
* Lê AnhTuấn -1975: Vợ là Phạm Thị Thanh Hà, quê ở Phường Trường Thi, có 1 con trai.
* Lê Thanh Phong - 1978.

3. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ BỀ - Cành nhất
 
Đời 16:                          Chi nhánh cụ lê Bề                         cành nhất
Đời 17:                       Lê Phượng                      Lê Dực


 
Đời 18:                        Lê Tiên                 Lê Tiến                lê ca
                                                                                       Vô tự           
Đời 19:              Thủ      Khôi              Trọng        thúc             Hiến
  Vô tự             Vô tự               Vô tự               Vô tự
Đời 20:                                                                                        Lê Hồ
Đời 21:                                                                                       Lê Đông




* GIA PHẢ CÀNH NHÌ
4. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ TRẠNG - cành nhì

 
Đời 17:                           Chi nhánh cụ Lê Trạng          Cành Nhì
Đời 18:                                                   Lê mãn



 
Đời 19:                 lê Luân                                             Lê trạc
Đời 20: Lê Huân    Lê Huấn   Lê Xuân       Lê Liên        Lê Hằng    Lê Hạnh
Đời 18: Lê Mẫn, kỵ 21 - 9. Cụ bà Lê Thị Bình, kỵ 16 - 9, người làng Ngọc Mai, xã Quảng Thành. Hai cụ có 4 người con:
 Lê Thị Thờng:
          Lê Luân    
                   Lê Trạng
                             Lê Thị Két
Đời 19: Cụ Lê Thị Thờng, lấy chồng làng có 1 con trai, làm ruộng
Đời 19: Cụ Lê Luân, kỵ 12 - 4. Cụ bà là Lê Thị Đang, dòng Lê Đình, kỵ 9 - 7, hai cụ có 6 người con
Lê Huân
          Lê Thị Vang
                   Lê Thị Phương
                             Lê Huấn
                                      Lê Thị Phơn
                                                Lê Xuấn
Đời 19: Cụ Lê Trạc. Cụ bà Lê Thị Bạn, dòng Lê Đình. Hai cụ có 5 người con:
Lê Liên
          Lê Thị Điền
                   Lê Hằng
                                      Lê Hạnh
                                                Lê Thị Khuê
Đời 19: Lê Thị Két, lấy chồng làng có 1 con gái
Đời 20: Ông Lê Huân, kỵ  6 - 3 -1980. Bà là Đỗ Thị Sơm, sinh năm 1910 - Năm 2005 cụ 96 tuổi. Ông bà có 4 người con:
* Lê Thị Len - làm ruộng ở quê. Chồng là Lê Văn Phương, dòng Lê Văn, công nhân nhà máy say Hàm Rồng về chế độ, mất năm 1996, có 4 con trai, 4 con gái.
* Lê Thị Ven, Công nhân vận tải Thuỷ, về chế độ. Chồng là Nguyễn Xuân Cận, quê ở Yên Định, đi bộ đội thời chống Mỹ phục viên về quê làm ruộng, có 3 con trai 1 con gái.
* Lê Hữu Hiên:1947, nhập ngũ vào quân đội 1965, hy sinh ngày 18/9/1970, tức ngày 18/8 Canh Tuất.
* Lê Thị Nhiên: 1950, kế toán Hợp tác xã Nông nghiệp. Chồng là Trần Xuân Toản:1956, đi bộ đội thời đánh Mỹ 1971 đến năm 1975 chuyển ngành về Xí nghiệp ô tô 19 - 5, sau đó về mất sức, có 3 con gái và 1 con trai.
Đời 20: Lê Thị Vang. Chồng là Đỗ Khắc Dơi, người cùng làng có 2 con gái - làm ruộng
Đời 20: Lê Thị Phương. Chồng là Lê Đình Chơi, người xóm Trại, sinh người con trai đầu lòng, chết cả mẹ lẫn con.
Đời 20: Ông Lê Huấn, kỵ 21 - 7 - 2000. Bà là Nguyễn Đỗ Thị Nghinh.
Ông đi lính sang Pháp được kết nạp vào Đảng cộng sản Pháp. Khi đất nước hoà bình Chính phủ Pháp vẫn trả lương cho ông.
Bà Nghinh - cụ thân sinh ra bà Nghinh là người Nghệ An dòng họ Nguyễn, vì cụ mất sớm nên cụ bà cho bà Nghinh mang thêm họ Đỗ của mẹ. Ông bà có một người con gái duy nhất là Lê Thị én.
* Lê Thị én - Chồng là Nguyễn Văn Toàn, quê ở Nghệ An, có 2 con trai và 2 con gái.
Đời 20: Lê Thị Phơn - Chồng là Nguyễn Xuân Phùng, có 1 con trai, là Nguyễn Xuân Liễn và 1 con gái chết trẻ.
Đời 20: Lê Xuấn:1927, đi  bộ đội chống Pháp năm 1945, năm 1956 chuyển ngành về Bộ thuỷ sản, sau đó chuyển về Ban tổ chức chính quyền Thanh Hoá, đến năm 1971 về hưu. Ông vào Đảng CSVN năm 1949; khi về hưu với nhiều lý do ông đã bỏ sinh hoạt.
Bà là Phạm Thị Chuộng, người cùng làng làm ruộng. Ông bà có 4 con:
* Lê Thị Hà: 1958 - Chồng là Nguyễn Đức Độ, người xóm Bắc làm ruộng, có 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Thị Hải: 1961 - Chồng là Trần Xuân Thanh cùng làng, đi làm ăn kinh tế ở Biên Hoà, có 2 con trai.
 * Lê Hữu Thanh: 1964. Vợ là Vũ Thị Hoa, quê Hải Dương. Buôn bán tự do ở Hà Nội, có 2 con:
                   Lê Thị Hoa
                             Lê Hữu Đạt
* Lê Hữu Thuỷ: 1968. Vợ là Nguyễn Thị Ngoan: 1971. Làm ruộng ở quê, có 2 con gái:
                   Lê Thị Nhung
                             Lê Thị Trang
Đời 20:  Lê Thị Điền (Vượng) sinh năm 1926. Chồng là Trần Văn Hiền quê ở Bến Tre tập kết ra Bắc. Là công nhân lái xe cần cẩu của Nhà máy cưa Mật Sơn. Khi miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất ông bà vào làm công nhân đường sắt ở ga Diêu Trì và định cư ở đó.
Đời 20:   Lê Liên 1927 học hết lớp 7 nhập ngũ vào quân đội 10/1947 cấp hàm thiếu uý trung đội trưởng. Đến năm 1958 chuyển ngành làm Công ty điện lực Hải Phòng làm quản đốc phân xưởng vận hành. Định cư ở 32/183 phường Đông Hải - quận Lê Chân - Hải Phòng. Nhiều huân chương trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Vợ là Nguyễn Thị Nguyệt 1936 quê ở xã Hải Phương - huyện Hải Hậu - tỉnh Nam Định. Là công nhân Nhà máy nhựa Tiền phong Hải Phòng. Ông bà có 3 người con, 2 trai 1 gái.
* Lê Đức Hoan 1963 - 1997. Vợ là Nguyễn Thị Hiền 1954 nhân viên Bưu điện Hải Phòng. Có 1 con gái Lê Thị Hà 1995
* Lê Thị Nga 1968 công nhân Nhà máy nhựa Tiền phong Hải Phòng đi xuất khẩu lao động sang Nga. Lấy chồng người Quảng Ngãi, tên là Trần Văn Thanh 1967, là kỹ sư xây dựng.
Lê Thị Nga hiện là dược sĩ, sống cùng chồng ở Quảng Ngãi. Có 2 con gái.
* Lê Văn Minh 1974 đi nghĩa vụ quân sự 4 năm ở quân chủng Hải quân về làm công nhân ở Công ty thương mại Hải Phòng ( Năm 2006 chưa vợ).
Đời 20: Lê Hằng - Lê Huy Hoàng 1932 đi công nhân quốc phòng, năm 1950 công tác ở Nhà máy in quân sự quân khu 4, đến 1954 phục viên, năm 1958 chuyển công tác sang Sở thương mại Hải Phòng, công tác đến 1988 về hưu, huân chương kháng chiến hạng nhì. Vợ là Trần Thị Lợi 1935 quê ở Đông Cống - Tiên Hưng - Thái Bình. Trong kháng chiến chống Pháp bà có đi dân công hoả tuyến, sau về làm việc ở Sở thương mại Hải Phòng. Ông bà có 9 người con, 6 con trai 3 gái.
* Lê Tùng 1955 - 2005. Vợ là Vũ Thị Thanh - 1964 quê ở Hải Phòng làm nghề kinh doanh, con là Lê Huy Thịnh - 1984 kinh doanh với mẹ
* Lê Thị Bích - 1958 tốt nghiệp cao đẳng thương mại về làm Phó giám đốc Công ty TNHH Hải Hùng ở Hải Phòng. Chồng là Trần Văn Quang 1956 - 2005, Thuyền trưởng viễn dương bị cảm chết năm 2005. Có 3 con gái mất 1 còn 2.
* Lê Huy Minh 1961 - 2005, học hết cấp 3 đi bộ đội 3 năm, ốm chết 2005. Vợ là Trần Thị Bích 1966 quê Hải Phòng, giáo viên cấp 1 có 2 con gái Lê Vũ Minh Thảo và Lê Vũ Minh Khánh.
* Lê Minh Quang 1962 đi nghĩa vụ quân sự đi thuyền bị đắm chết chưa vợ con.
* Lê Duy Hải 1965 học hết cấp 3 đi nghĩa vụ quân sự về làm kinh doanh. Vợ là Trần Thị Hà quê ở Hải Phòng năm 2005, là Thượng uý Công an quận Hồng Bàng, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
* Lê Thị Hằng 1967 Giám đốc Công ty thương  mại Nam Ninh. Chồng là Lương Huy Quang 1957 , người Việt gốc Hoa Phó giám đốc Công ty thương mại Nam Ninh . Có 3 con trai.
* Lê Quốc Hùng 1969, Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty Nam Ninh. Vợ là Trần Thị Thu Huyền - 1973 làm công tác nội trợ. Có 2 con gái Lê Thị Thuỳ Linh và Lê Thị Khánh Linh.
* Lê Thị Thu Nga 1973 lấy chồng Hồng Công. Chồng là A Mần, con gái là ANhì.
* Lê Huy Dũng 1975 - 2005, tốt nghiệp Đại học quản trị kinh doanh bị ốm chết 2005.
Đời 20: Lê Hạnh 1942 từ năm 1958 - 1965 là công nhân cơ khí ở Nam Định, năm 1965 - 1973 vào quân đội ở Cục quản lý xe, năm 1973 về chế độ bệnh binh. Hiện ở tổ 6 phường Túc Duyên - thành phố Thái Nguyên. Vợ là Đặng Thị Lựu 1944 quê ở Thái Nguyên, năm 1965 làm  ở cửa hàng ăn uống Thái Nguyên, năm 1993 nghỉ hưu. Ông bà có 3 con, 2 trai 1 gái.
* Lê Văn Tuấn 1971 - 2004 là lái xe bị chết vì tai nạn, có 1 con gái Lê Thị Linh 1995.
* Lê Thị Hà 1974 cử nhân kinh tế quốc dân hiện đang  công tác ở Công ty quảng cáo hội chợ quốc tế N/09 Đinh Lễ - Hà Nội - VILAXAT. Chồng là Hoàng Minh Thái 1972 kế toán ở VILAXAT. Con trai là Hoàng Minh Quân  - 2000.
* Lê Văn Hiệp 1987 cao đẳng kế toán Thái Nguyên.
Đời 20: Lê Thị Khuê lấy chống miền Nam, hiện ở Đà Lạt.


5. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ SUY - cành nhì

Đời 17:                  Chi nhánh cụ Lê Suy                                  Cành nhì

Đời 18:      Lê Vừng                        Lê Ê                          Lê A
                             (Vô tự)                                 (Vô tự)
Đời 19:                 Lê Liệp                    Lê Nháy                                Số
Đời 20:     Lê Nài   Lê Ngưỡng    Lê Văn    Lê Thơ       Lê Hảo  Lê Hậu  Lê Hải
Đời 17: Gia phả không còn, các tư liệu truyền miệng dựng lên không chính xác cho nên đời 17 không thuyết  minh được, chúng tôi chỉ dựng lại cụ Lê A ở đời 18.
Đời 18: Cụ Lê A kỵ 7 - 4, cụ bà là Đỗ Thị Chép, kỵ 14 - 4. Hai cụ làm ruộng sinh được 3 con trai: Lê Liệp, Lê Nháy, Lê Số; 2 con gái: Lê Thị Hỏi, Lê Thị Giật (Cụ Giật chết năm 13 tuổi).
Đời 19: Cụ Lê Liệt - Kỵ 3 - 7; Cụ bà là Lê Thị Hơn dòng Lê Bá - Kỵ 13 - 9. Hai cụ làm ruộng, sinh được 2 trai, 2 gái là: Lê Nài, Lê Ngưỡng, Lê Thị Sơn, Lê Thị Xuyên.
Đời 19: Cụ Lê Thị Hỏi, lấy chồng làng; 1 con trai, 1 con gái và 1 con trai chết trẻ.
Đời 19: Cụ Lê Nháy - Kỵ 19 - 11 - 1996. Cụ là công nhân Bưu điện Thanh Hoá về hưu. Cụ bà là Lê Thị Nưng họ Lê Đình - Kỵ 23 - 11 - 2004, làm ruộng ở quê, 2 cụ có 3 con trai, 4 con gái, người con trai cả mất sớm gia đình thương tiếc không muốn ghi lại tên. Các con là: Lê Thị Minh, Lê Văn, Lê Thị Hay, Lê Thị Phú, Lê Thơ, Lê Thị Nhàn.
Đời 19: Cụ Lê Số - Kỵ 8 - 8, Cụ bà là Nguyễn Thị Mận, quê ở Nam Định làm con nuôi gia đình cụ Bẫm ở Vệ Yên. Các cụ làm ruộng và có 9 người con: 3 con trai, 4 con gái, chết trẻ 1 gái, 1 trai. Các con là: Lê Thị Mà, Lê Thị Thắm, Lê Thị Hoà, Lê Hảo, Lê Thị Hiền, Lê Hậu, Lê Hải.
Đời 20: Ông Lê Hữu Nài -1933 đi công nhân Đường sắt, chuyển về nhà máy cưa Mật Sơn và nghỉ hưu. Bà là Đỗ Thị ý - 1940 làm ruộng, có 3 con trai, 3 con gái.
          * Lê Hữu Kiều - 1960: Đảng viên ĐCSVN, đi xuất khẩu lao động Hunggari 4 năm, về nước, được bạn bảo lãnh  sang Tiệp tiếp tục làm ăn. Vợ là Vũ Thị Hoà -1960, quê làng Nhồi Đông Hưng, có 2 con gái, 1 con trai.
          * Lê Hữu Tú - 1960: Công nhân đường sắt, Vợ là Nguyễn Thị Hợi -1971 làm ruộng ở quê.
          * Lê Hữu Ba  -1967: Vợ là Nguyễn Thị Loan - 1971, làm ruộng ở quê
          * Lê Thị Yến - 1970: Chồng là Phạm Văn Sơn - 1959, Công nhân địa chất, có 1 con trai, 1 con gái.
          * Lê Thị Hoa 1973: Làm ruộng: Chồng là Trần Đình Sáu - 1970, làm ruộng, có 2 con trai.
          * Lê Thị Hương - 1979: Công nhân may giầy da xuất khẩu Thanh Hoá.
Đời 20: Lê Hữu Ngưỡng -1934: Những năm đầu mới thoát ly làm công nhân ngành đặc sản ở Hồi Xuân chuyên khai thác cánh kiến đỏ, sau đó làm nhân viên điều tra quy hoạch rừng, công nhân cầu đường lái máy ủi, khi chiến tranh bùng nổ  thì nhập ngũ vào quân đội, sau đó chuyển ngành về nhà máy xi măng 3 - 2 của Thanh Hoá, rồi về mất sức. Bà là Đỗ Thị Ngà - 1939, quê Nghệ An làm con nuôi nhà Cụ Tuân khi đó cụ Tuân làm ăn buôn bán ở Nghệ An, nên đã nhận con nuôi. Ông bà có 3 con trai và 3 con gái, người con trai thứ 3 chết lúc 4 tuổi.
          * Lê Hữu Kim - 1960: Làm ruộng ở quê, vợ Phạm Thị Hoà - 1958, người chợ Bùi - Quảng Giao - Quảng Xương, có 1 con trai, 1 con gái.
          * Lê Hữu Tuấn -1967: Làm ruộng ở quê, vợ Phạm Thị Châu, người cùng làng, làm ruộng, có 1 con trai.
          * Lê Thị Oanh - 1974: Làm ruộng.
           * Lê Thị Bình -1976: Lấy chồng có 1 con trai, chồng bỏ đi mất tích.
          * Lê Thị Toàn - 1978: Làm ruộng.
Đời 20: Lê Thị Sơn -1940: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đi thanh niên xung phong, sau đó chuyển về Xí nghiệp cơ khí nông nghiệp làm công nhân và về mất sức nghỉ tại quê.
Đời 20: Lê Thị Xuyên: Đi thanh niên xung phong, sau đó về làm ruộng ở quê. Chồng là Nguyễn Văn Lặng, người Quảng Ngọc - Quảng Xương, đi bộ đội chiến đấu ở Miền Nam. Sau đó về làm ruộng ở quê, có 2 con gái là: Hồng và Thuỷ, 3 con trai, là Đặng, Anh, Chung.
Đời 20: Lê Thị Minh: Công nhân xí nghiệp gốm lò chum về hưu, chồng là Hoà quê ở Hoàng Hoá, cũng là công nhân xí nghiệp gốm lò chum về hưu. Ông bà có 1 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Văn: Đi bộ đội tham gia chiến đấu ở CamPuChia, bị thương năm1978, phục viên về quê làm ruộng, vợ là Nguyễn Thị Thảo, công nhân Xí nghiệp gốm bị bệnh ốm nặng chết năm 1996, có 2 con trai: Lê Việt, Lê Nam.
Đời 20: Lê Thị Hay: Làm ruộng
Đời 20: Lê Thị Phú: Làm ruộng
Đời 20: Lê Hữu Thơ - 1964 đi công nhân quốc phòng phục vụ ở Lào 4 năm, về làm ruộng ở quê. Vợ Nguyễn Thị Hội cũng công nhân quốc phòng phục vụ ở Lào: 4 năm về làm ruộng ở quê. Có 3 con: Lê Hữu Đông, Lê Hữu Bắc, Lê Thị Hồng.
Đời 20: Lê Thị Nhàn -1969: Làm ruộng ở quê. Chồng tên là Công, người làng Bố Vệ, có 2 con gái là Lý và Nhung, 1 con  trai là Sự.
Đời 20: Lê Thị Mà -1949: Làm ruộng chồng là Cảnh, quê Thọ Xuân, có 5 con trai.
Đời 20: Lê Thị Thắm: Chồng là Mùi, cả 2 vợ chồng đều đi bộ đội trong kháng chiến Chống Mỹ cứu nước, cùng thương  binh, về Xí nghiệp may của quân đội ở Thanh Hoá và về hưu, có 1 con gái và 2 con trai.
Đời 20: Lê Thị Hoà: Làm ruộng, chồng là: Đỗ Dũng, người cùng làng đi công nhân Gang thép Thái Nguyên, chuyển về mỏ Crômmít Cổ Định và về chế độ một lần, có 2 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Hảo -1959: Đi công nhân Gang thép Thái Nguyên sau đó chuyển về Crommít Cổ Định và về chế độ một lần. Vợ là Lê Thị Yên dòng họ Lê Đình, có 1 con trai và 1 con gái: Lê Hữu Chung, Lê Thị Thuỷ.
Đời 20: Lê Thị Hiền -1961: Đi bộ đội phục vụ chiến tranh Biên giới Tây Nam 1978 - 7979, sau đó chuyển về Xí nghiệp may Sở TBXH Thanh Hoá về nghỉ chế độ. Chồng là Cao Văn Khoa, quê ở Hoàng Hoá, cũng là Thương binh ở Xí nghiệp may Thanh Hoá về hưu, chuyển vào Lâm Đồng làm kinh tế, có 2 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Hậu -1964: Học hết cấp 2, đi nghĩa vụ quân sự, về làm ruộng ở quê.
Vợ cả là Đỗ Thị Vân, người cùng làng bị bệnh chết, có 2 con gái là: Lê Thị Trinh, Lê Thị Lý. Vợ hai tên là: Thắm, người Hà Nam, có 1 con gái (Ông Hậu bị ung thư Gan chết năm 2005).
Đời 20: Lê Hải -1967: Học hết cấp 2, đi nghĩa vụ quân sự, về quê làm ruộng, vợ là Mai Thị Thanh, người cùng làng là công nhân cơ khí chuyển sang công nhân khai thác khoáng sản. Con là: Lê Thị Hà, Lê Thị Lan, Lê Hữu Thành.
6. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ DỰC - Cành nhì


Đời 17:                                    Chi nhánh cụ Lê Dực             cành nhì


 
Đời 18:                                             Lê Ca
Đời 19:                   Lê Trọng         lê Thúc              Lê Hiến
                                 (Vô tự)                   (Vô tự)
  Lê Hồ
Đời 18: Hậu thế chỉ nhớ rằng: Cụ Lê Hữu Ca có 4 người con, 3 trai và 1 gái.
Lê Trọng: (Vô Tự)
Lê Thúc: (Vô tự)
Lê Hiến
          Lê Thị Chuộng.
Đời 19: Cụ Lê Hiến kỵ 14 - 12. Cụ bà là Lê Thị Lệ, kỵ 9 - 8, hai cụ có 4 con gái và 1 con trai.
Đời 20: Lê Thị Diện định cư ở Như Thanh. Chồng là Quách Ngọc Quyến, người dân tộc Mường, huyện Cẩm Thuỷ lái xe ở Lâm trường Như Xuân có 2 con trai và 4 con gái.
Đời 20: Lê Hồ: 1949. Vợ là Trần Thị Thảo, người cùng làng, cả gia đình đi làm ăn ở Biên Hoà, có 2 con gái và 1 con trai.
          * Lê Thị Thu: 1974. Lấy chồng người Ninh Bình là Công an TP. Hồ Chí Minh, có 1 con trai, 1 con gái.
          * Lê Hữu Đông:1979
* Lê Thị Xuân:
Đời 20: Lê Thị Thuý. Lấy chồng là Trần Văn Khương làm ruộng, ở Bến Sung huyện Như Thanh, có 2 con trai, 1 con gái đang đi làm ăn ở Miền Nam.
Đời 20: Lê Thị Tú: 1956. Chồng là Nguyễn Văn Sang, người ở phố Lò Chum - Phường Trường Thi - TP. Thanh Hoá. Cả 2 vợ chồng trước kia là công nhân đường sắt, nhưng đã giải nghệ về làm ruộng và buôn bán tự do, có 2 con gái.
Đời 20: Lê Thị Tuấn. Chồng là Nguyễn Văn Thai, quê ở Hoằng Hoá làm ở Lâm Trường Như Thanh về hưu, có 3 con gái, 1 con trai.
7. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ SANG - Cành nhì
 
Đời 17:                                        Chi nhánh cụ Lê sang          Cành nhì
Đời 18:                                                    Lê Chính
Đời 19:                                   Lê Hộ                                    Lê cử








 
Đời 20:           Dịu                chủ          cầu           nhân            quý
                                                   
Đời 17: Đời thứ 17 cụ Lê Sang: Chết trẻ có một người con trai là Lê Chính, cụ bà không nhớ tên đã đi bước nữa nên không ai nhớ huý kỵ của hai cụ.
Đời 18: Cụ Lê Chính kỵ 26/7. Cụ bà Lê Thị Độ: Người cùng làng dòng họ Lê Đình kỵ 10/4. Hai cụ có 7 người con:
1. Lê Thị Tày
2. Lê Thị Chưng
3. Lê Hữu Hộ - Lê Hữu Mai
4. Lê Thị Mùi
5. Lê Thị Xã
6. Lê Thị Phùng
7. Lê Hữu Cử
Đời 19: Cụ Lê Thị Tày: Lấy chồng làng dòng họ Trần tên là Mừng. Các cụ làm ruộng ở quê có một con trai và một con gái.
Đời 19: Cụ Lê Thị Chưng: Lấy chồng làng dòng Lê Đình tên là Xứng các cụ làm ruộng ở quê có một con trai và một con gái.
Đời 19: Cụ Lê Hộ - Lê Mai kỵ 23/8.
Sau cách mạng tháng 8/1945 cụ tham gia nhiều công tác ở địa phương, là Đảng viên ĐCSVN. Sau năm 1950 cụ được cử vào hoạt động trong Hội phật giáo. Là một Đảng viên nhưng lòng tín ngưỡng hơi cao nên cụ bị quy là phật tử; đến năm 1953 bị khai trừ khỏi Đảng. Cụ có 2 bà vợ.
Bà cả: Lê Thị Thênh dòng Lê Đình làm ruộng, có 6 con.
1. Lê Tau chết lúc 6 tuổi
2. Lê Thị Dân chết lúc 15 tuổi vì bệnh tim.
          3. Lê Thị Quê
                   4. Lê Thị Quy
                             5. Lê Thị Phượng
                                      6. Lê Dịu.
Bà hai: Trần Thị Tuất - 1920: người cùng làng, có 5 con.
1. Lê Thị Mùa - 1948 chết khi 2 tuổi vì bệnh đậu mùa.
          2. Lê Bá
                   3. Lê Chủ
                             4. Lê Thị Hoàn -1957 ốm chết 1963
                                      5. Lê Cầu
Đời 19: Cụ Lê Thị Mùi lấy ông Lê Viết Nhì người cùng làng có 2 con gái.
Đời 19: Lê Thị Xã lấy ông Đỗ Chúng - Đảng viên ĐCSVN, có 5 con trai, 2 con gái.
Đời 19: Cụ Lê Thị Phùng lấy chồng ở làng Quảng, xã Đông Vệ làm ruộng, có 2 con trai, 1 con gái.
Đời 19: Cụ Lê Cử -1928, làm ruộng. Năm 1964 cụ Cử  và gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Như Xuân. Năm 2002 chuyển về thị trấn Bến Sung huyện Như Thanh sống với gia đình người con trai cả. Cụ bà là Phạm Thị Vượng - 1929 ở phố Huế - Thành phố Thanh Hoá. Hai cụ có 8 người con.
          1. Lê Anh Nhân
                   2. Lê Thị Viên
                             3. Lê Thị Phú
                                      4. Lê Thị Thịnh
                                                5. Lê Quý
                                                         6. Lê Thị Ngọc
                                                                   7. Lê Thị Liên
                                                                             8. Lê Thị Minh
Đời 20: Lê Thị Quê - 1947 là cửa hàng phó cửa hàng lương thực huyện Quảng Xương về hưu. Chồng là Lê Đình Diễn người cùng làng - thiếu tá quân đội về hưu Đảng viên ĐCSVN có 1 con gái, 3 con trai.
Đời 20:  Lê Thị Quy - 1951 lấy chồng xã Quảng Ninh huyện Quảng Xương tên là Tới là cán bộ lương thực về hưu- Đảng viên ĐCSVN có 1 con gái.
Đời 20: Lê Thị Phượng - 1954 làm ruộng, lấy chồng làng là Đỗ Tuấn, 1 con gái, 4 con trai.
Đời 20: Lê Dịu - 1960: làm ruộng ở quê. Vợ là Trịnh Thị Chánh - 1958 quê ở xã Quảng Thành, có 2 con trai.
          1. Lê Lộc - 1980 - Hàm thụ tin học
                   2. Lê Đa - 1983
Đời 20: Lê Bá- 1950: Nhập ngũ vào quân đội 1968, phục viên 1970. Khi chiến tranh biên giới xảy ra, tái ngũ 1978, đến năm 1982 phục viên, cấp bậc Trung uý, Đảng viên ĐCSVN, phục viên về quê với chế độ bệnh binh nên lương thấp. Về quê có tham gia một số công tác ở địa phương, sau đó thôi sinh hoạt Đảng.
Vợ là Nguyễn Thị Hương - 1952: Người làng Yên Biên. Năm 1971 nhập ngũ vào quân đội phục vụ ở đường dây 559 đến năm 1975 phục viên. Từ năm 1976 tham gia nhiều công tác ở UBND xã Quảng Thắng, là Đảng viên ĐCSVN, là Hội trưởng phụ nữ xã, về hưu năm 2001. Có 1 con gái và 1 con trai.
* Lê Thị Hoa - 1977: ĐHSP I Hà Nội, giáo viên ngoại ngữ trường THCS Quảng Lưu- Quảng Xương. Chồng là Lê Ngọc Huynh - 1974 quê ở xã Quảng Thọ, là công nhân nhà máy bia Thanh Hoá.
* Lê Quế - 1979: Kiến trúc sư công tác ở Công ty xây dựng Thanh Hoá.
Đời 20:  Lê Chủ - 1952: Nhập ngũ vào quân đội năm 1971, đến năm 1988 về phục viên theo chế độ bệnh binh, cấp hàm Đại uý, Đảng viên ĐCSVN. Về địa phương tham gia nhiều công tác khác nhau, Chủ tịch CCB của xã. Với nhiều lí do khác nhau, năm 2005 đã nghỉ chức Chủ tịch CCB.
Vợ là Phạm Thị Huệ: người cùng làng, tốt nghiệp Cao đẳng y khoa Thanh Hoá, công tác ở bệnh viện Thanh Hoá, có 2 con: 1 trai, 1 gái.
* Lê Kiên 1983 Cao Đẳng Tin Học
          * Lê Thị Phương 1985 Cao Đẳng Tin Học
Đời 20: Lê Cầu - 1960: Học hết cấp 3 nhập ngũ vào quân đội, vào học trường Sỹ quan công binh ở Bình Dương. Ra trường, đi xuất khẩu lao động sang Nga 10 năm, về nước lại tiếp tục công tác ở công binh và công tác ở các tỉnh phía Nam có hai vợ:
Vợ cả: Trần Thị Trâm người cùng làng, làm ruộng, sinh ra 1 con trai tên là: Lê Anh. Khi có Lê Anh, Lê Cầu đang ở Nga, đã ly hôn để lấy vợ hai cùng công tác ở Nga.
          Vợ hai: Nguyễn Thị Long - 1963: quê Thanh Chương - Nghệ An. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ trong quân đội, được xuất khẩu lao động sang Nga và đã xây dựng gia đình với Lê Cầu. Có 1 con gái và 1 con trai.
          * Con gái Lê Hải Trinh - 1994
                   * Con trai Lê Vương - 2000
Đời 20: Lê Anh Nhân - 1951: nhập ngũ vào quân đội 1970 chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Năm 1978 chuyển ngành về làm cán bộ ở huyện Như Xuân, Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Đã tốt nghiệp lớp cao cấp lý luận. Từ năm 1991 đã là Phó bí thư huyện uỷ Như Xuân, sau khi thành lập huyện Như Thanh là Bí thư huyện uỷ kiêm Chủ tịch HĐND huyện, Đại biểu HĐND tỉnh Thanh Hoá. Vợ là Lê Thị Chấp - 1955 quê ở Yên Lễ - Như Xuân. Có 3 con gái và 1 con trai.     
* Lê Thị Nhung - 1978, tốt nghiệp Đại học sư phạm Hồng Đức, là giáo viên Trường Dân tộc Nội trú huyện Như Thanh, Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Chồng là Nguyễn Hoàng Ngọc - 1976 quê Nam Ngạn - Thành phố Thanh Hoá. Đảng viên, Đại học Xây dựng, Bí thư huyện Đoàn Như Thanh có 1 con trai.
          * Lê Thị Sâm - 1980 tốt nghiệp Đại học sư phạm Vinh, giáo viên trường Trung tâm giáo dục thường xuyên và Dạy nghề huyện Như Thanh. Chồng là Hoàng Đức Hiếu - 1980 quê Tiến Lộc - Hậu Lộc, Đại học sư phạm, giáo viên trường phổ thông trung học Nông Cống 1.
          * Lê Thị Tâm - 1984, năm 2005 là sinh viên năm thứ 2 Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội.
* Lê Anh Đức - 1987, học sinh cấp 3.
Đời 20: Lê Thị Viên - 1954: Làm ruộng ở xã Hoá Quỳ -Như Xuân. Chồng là Lê Ngọc Hào - 1951 quê xã Quảng Giao- Quảng Xương. Năm 2003 về trước là Đảng viên ĐCSVN, Chủ tịch xã. Sau đó bị kỷ luật. Có 2 con trai, 4 con gái.
Đời 20: Lê Thị Phú - 1957 làm ruộng ở Yên Lễ - Như Xuân. Chồng là Lê Hữu Len- 1956, có 2 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Thị Thịnh - 1960, Trung học sư phạm Thanh Hoá, giáo viên trường Tiểu học Yên Lễ - Như Xuân. Chồng là Lê Đức Khả - 1959 quê xã Yên Lễ - Như Xuân. Đảng viên ĐCSVN, cán bộ xã Yên Lễ. Có 1 con gái, 1 con trai.
Đời 20: Lê Như Quý - 1963, đi bộ đội năm 1982 đến năm 1985 về phục viên, làm công tác dịch vụ ở thị trấn Yên Cát - Như Xuân. Vợ là Phạm Thị Hoa - 1964 ở phố Quang Trung - Thành phố Thanh Hoá. Tốt nghiệp Đại học sư phạm, dạy trường Trung học Yên Lễ, Đảng viên ĐCSVN, có 1 con trai, 1 con gái.
          * Lê Hữu Quyền - 1990 Học sinh
                   * Lê Thị Mai  - 1995 Học sinh
Đời 20: Lê Thị Ngọc - 1966, Đại học sư phạm Mầm non, Đảng viên ĐCSVN, công tác tại Phòng giáo dục Như Xuân. Chồng là Nguyễn Văn Ân - 1964, quê xã Thiệu Chính - Thiệu Hoá, công tác ở huyện uỷ Như Xuân, Đảng viên ĐCSVN. Có 1 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Thị Liên - 1969, Cao đẳng sư phạm Thanh Hoá, giáo viên trường THCS Mậu Lân - Như Thanh. Chồng là Bùi Văn Hai - 1968 quê Mậu Lân - Như Thanh, có 2 con gái.
Đời 20: Lê Thị Minh - 1972, Trung cấp kế toán, công tác ở Trị trấn Yên Cát. Chồng là Lê Văn Vường - 1969, Đại học Y khoa Thái Bình. Công tác Trung tâm y tế huyện Như Xuân, Đảng viên ĐCSVN. Có 1 con gái.


* GIA PHẢ CÀNH BA


8. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ KIÊN - Cành 3


Đời 17:                                   Chi nhánh cụ Lê Kiên         Cành 3











 

Đời 18:             Lê tá                Lê thuỵ         Lê Hựu       Lê quyền
       Vô tự                                     Vô tự            Vô tự
Đời 19:                           Lê đà                    Lê thị mon












 

Đời 20:       Lê xuân             Lê loan                     lê thu
Đời 18: Cụ Lê Thuỵ, cụ bà là Lê Thị Men dòng họ Lê Đình. Hai cụ có 2 người con, 1 trai 1 gái
                                      * Lê Đà
                                                * Lê Thị Mon
Đời 19: Cụ Lê Đà kỵ 1 - 9 - 1969. Cụ bà Nguyễn Thị Đỉnh mất 1984. Hai cụ có 5 người con:
                   1. Lê Xuân
                             2. Lê Loan
                                      3. Lê Thu
                                                4. Lê Thị Cúc
                                                          5. Lê Thị Huệ
Đời 19: Lê Thị Mon lấy chồng dòng họ Đỗ cùng làng. Có 2 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Xuân 1926, năm 1946 đi làm công nhân nhà máy điện sau đó chuyển sang làm công binh xưởng, đến năm 1949 vào quân đội. Hoà bình lập lại, năm 1960 chuyển ngành sang Bộ kiến trúc đến năm 1980 thì về hưu. Bà là Phạm Thị Kết 1926 người làng Vệ làm ruộng. Ông bà có 4 con.
                   1. Lê Thị Thoa
                             2. Lê Thị Oanh            
                                      3. Lê Thị Hương
                                                4. Lê Hữu Phú
Đời 20:  Ông Lê Hữu Loan 1934 , năm 1953 nhập ngũ vào quân đội làm y tá. Trong kháng chiến chống Pháp ông là thương binh, cấp hàm Thượng Sĩ, vào Đảng 1958. Năm 1961 đi học lớp y sĩ 3 năm sau chuyển về y tế dự phòng của Thanh Hoá.
Năm 1970 - 1973  được đi học Đại học y - bác sĩ, 1985 - 1986 đi học chuyên khoa y tế cấp I và công tác ở y tế dự phòng Thanh Hoá. 7-1993 nghỉ hưu.
Bà là Phạm Thị Ngợi 1935 người cùng làng làm ruộng. Ông bà có 4 con.
                   1. Lê Thị Hạnh  - 1964
                             2. Lê Thị Hường - 1966
                                      3. Lê Hữu Hùng  - 1969
                                                4. Lê Hữu Tùng - 1974
Đời 20: Ông Lê Thu công nhân nhà máy điện Uông Bí. Bà là Lê Thị Thời, làm ruộng. Ông bà có 3 con gái
                             1. Lê Thị Hạnh
                                      2. Lê Thị Hà
                                                3. Lê Thị Vân
Đời 20: Lê Thị Cúc, chồng là Cao Xuân Khuê người Nghệ An, đi vùng kinh tế  miền Tây Nghệ An.
Đời 20: Lê Thị Huệ lấy chồng làng Cốc - xã Đông Hương, chồng bỏ đi mất tích.
Đời 21: Lê Thị Thoa làm ruộng. Chồng là Nguyễn Duy Thêm người Đông Vệ. Có 2 con trai, 1 con gái
Đời 21: Lê Thị Oanh làm ruộng. Chồng là Lê Bá Toàn người Làng Vệ. Có 2 con trai, 1 con gái.
Đời 21: Lê Thị Hương làm ruộng. Chồng là Đỗ Khắc Xu người làng Vệ, có 2 con gái
Đời 21:  Lê Hữu Phú 1969 đi nghĩa vụ quân sự hai năm về làm ruộng, vợ là Lê Thị Hồng dòng họ Lê Đình, có 2 con trai
                   1. Lê Hữu Ngọc
                             2. Lê Hữu Sơn
Đời 21:  Lê Thị Hạnh 1964,  y sĩ y tế dự phòng. Chồng Hoàng Tuấn Hùng 1960 quê ở Hoằng Hoá, cử nhân kinh tế, Phó Chi cục thuế Sầm Sơn, Đảng viên. Có 1 con trai
Đời 21:  Lê Thị Hường 1966, chồng là Hoàng Văn Mùi 1959, cùng đi xuất khẩu lao động sang Nga năm 1988 - 1992 về làm ruộng. Có 2 con trai.
Đời 21: Lê Hữu Hùng 1969 đi nghĩa vụ quân sự về lái xe tải ở xã. Vợ  Đỗ Thị Hương 1976 làm ruộng. Có 2 con:
                             Lê Dũng
                             Lê Tuấn
Đời 21:  Lê Hữu Tùng 1974 đi nghĩa vụ quân sự vào Đảng cộng sản Việt Nam 1997 về lái se tải ở xã.  Vợ là Phí Thị Hiền 1975 làm ruộng. Có 2 con trai.
                             1. Lê Tiến
                                      2. Lê Tâm


9. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ ĐA - Cành ba
Đời 18:                           Chi nhánh cụ  Lê Đa                         Cành ba
Đời 19:                                                Lê Bồ
Đời 20:                  Lê Inh                    Lê Công                       Lê Minh
Đời 18:      Cụ Lê Đa   Không nhớ năm sinh            Kỵ tháng 4
Cụ bà không nhớ tên, năm sinh              Kỵ tháng 6
Lê Thị Bịch
                      Lê Thị Kịch
             Lê Bồ
Đời 19:  Lê Thị Bịch lấy chồng họ Phạm, cùng làng có 1 con trai 2 con gái.
Đời 19: Lê Thị Kịch lấy chống họ Phạm, cùng làng có 1 con gái.
Đời 19: Lê Bồ - Kỵ 10/6. Cụ và Phạm Thị Ưởng cùng làng - Kỵ 19/3. Hai cụ có 2 con gái 3 con trai.
Lê Thị Choẹ
          Lê Hữu Inh
                   Lê Thị ưng
                             Lê Hữu Công
                                       Lê Hữu Minh
Đời 20:  Lê Thị Choẹ lấy chồng họ Trần, cùng làng có 2 con gái 1 con trai.
Đời 20: Lê Hữu Inh sinh năm 1916 đi lính sang Pháp 3 năm theo chế độ quân dịch. Về nước trước năm 1945, được phong "bếp" - binh nhất. Bà là Phạm Thị Lỗi sinh năm 1922 quê Thanh Miện  - Hải dương. Ông bà sinh được 3 người con gái, 1 người con trai.
* Lê Thị Thanh sinh năm 1948, chồng là Nguyễn Minh Đức người Hoằng Hoá làm nghề lái xe, có 1 con gái.
* Lê Hữu Bình - sinh năm 1953, đi bộ đội chống Mỹ 1972 -1977 chuyển ngành về cơ khí Thanh Hoá và về chế độ mất sức. Vợ làLê Thị Mai sinh năm 1962 dòng họ …………………. làng …………………….. là công nhân Công ty Xây dựng 1 của Thành phố Thanh Hoá về chế độ 1 lần, có 2 con gái, 1 con trai.
-  Lê Thị Tú Quỳnh- sinh năm 1985 sinh viên Đại học Quản trị kinh doanh.
-  Lê Thị Ngân Hoa  - sinh năm 1987
- Lê Trung Kiên - sinh năm 1997
* Lê Thị Yên - Sinh năm 1958 giáo viên PTCS  Nguyễn Văn Trỗi. Chồng là Trịnh Đức Tạo 1952 giáo viên PTTH Đào Duy Từ, có 1 con trai.
* Lê Thị Nhàn  - Sinh năm 1962 học hết PTCS đi bộ đội, về lấy chồng, làm nội trợ. Chồng là Nguyễn Hải Long - Sinh năm 1958 giáo viên trường PTCS chuyên Trần Mai Ninh, đảng viên Đảng CSVN, có 2 con trai.
Đời 20:  Lê Thị ưng ………………… lấy chồng làng, làm ruộng
Đời 20:  Lê Hữu Công - Sinh năm 1926. Trong kháng chiến chống Pháp đi dân công nhiều đợt phục vụ các chiến dịch. Ông có 2 đời vợ.
          -> Bà cả Lê Thị Ngơi -1930 dòng họ Lê Đình, có 3 con gái, 1 con trai.
* Lê Thị Vượng - Sinh năm 1948 lấy chồng bộ đội tên là Dong, quê ở Nghệ An, hết chiến tranh theo chồng về quê làm ruộng.
* Lê Thị Vinh - Sinh năm 1951. Lấy chồng Quảng Xương, làm ruộng.
* Lê Hữu Văn - Sinh năm 1954. Đi bộ đội 1974 đảng viên, định cư ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ là Lê Thị Huyền - Sinh năm 1952 có 3 con gái.
* Lê Thị Vĩnh - Sinh năm 1961. Công nhân nhà máy thuốc lá Thanh Hoá. Chồng là Thắng quê ở Hà Trung có 2 con gái.
-> Bà hai    Lê Thị Hữu - Sinh năm 1940 dòng họ Lê Đình. Sau khi bà cả mất ông Lê Hữu Công lấy bà hai sinh thêm 2 con trai 1 con gái.
* Lê Hữu Thắng - Sinh năm 1972 lái xe. Vợ là Nguyễn Thị Mai, làm ruộng, 1 con gái.
* Lê Hữu Thành - Sinh năm 1974, lái xe. Vợ là Nguyễn Thị Thanh 1976 quê ở Lưu Vệ - Quảng Xương, có 1 con trai.
* Lê Thị Thịnh - Sinh năm 1975 lấy chồng họ Đỗ cùng làng, 2 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Minh - Sinh năm 1934 đi bộ đội chốnh Pháp, cấp hàm Đại tá về hưu, đảng viên Đảng CSVN, định cư ở Hà Nội.
Bà là Nguyễn Thị Bé quê ở Hưng Yên. Phó Giám đốc nhà máy ép dầu Vĩnh Yên, đảng viên Đảng CSVN, về hưu. Ông bà có 1 con gái 3 con trai.
* Lê Thị Thu - Sinh năm 1958 giáo viên Tiểu học Vĩnh Yên. Chồng là Toàn giáo viên trường Đại học Quân sự cấp hàm Thượng tá. Có 2 con trai 1, con gái đều đã tốt nghiệp Đại học.
* Lê Hữu Đông - Sinh năm 1960 đi bộ đội về làm công nhân nhà máy ép dầu Vĩnh Yên và định cư  ở Vĩnh Yên. Vợ là Lê Thị Tơ quê ở Vĩnh Yên, có 1 con trai, 1 con gái.
* Lê Hữu Xuân - Sinh năm 1962 công tác ở ban cơ yếu Chính phủ.Vợ là Mai cùng cơ quan, có 1 con trai, 1 con gái ở Hà Nội.
* Lê Hữu Thuỷ - Sinh năm 1964 giáo viên trường Kỹ thuật mật mã. Vợ là Nguyên Thị Xuân, cùng cơ quan với chồng, có 1 con trai, có 1 con gái ở Hà Nội.


10. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ PHONG - Cành ba


Đời 17:                           Chi nhánh Cụ Lê Phong                            Cành ba


 
Đời 18:                    Lê Tân                                   Lê Tiến







 
Đời 19:       Lê Lãng      Lê Tởng      Lê Tác         Lê Tiệp       Lê Tịch
      (2008 nhâm ngọ)                                   (Vô tự)              (Vô tự)
Đời 20:                           Lê Đồng                                            Lê Sơn
Đời 17: Cụ Lê Phong.Các cụ có 2 người con trai là Lê Tân, Lê Tiến và một người con gái lấy chồng ở Quảng Xương, lâu rồi con cháu không về không biết thêm về lai lịch.
Đời 18: Cụ  Lê Tân . Cụ bà là Phạm Thị Hay, kỵ 6 - 02. Trong gia phả chỉ ghi có 2 người con trai là Cụ  Lãng, Cụ Tởng còn con gái không biết. Cụ Lê Lãng (vô tự), cụ Lê Tởng sinh ra Lê Đồng.
Đời 18: Cụ Lê Tiến. Có 3 con trai là Lê Tác, Lê Tiệp, Lê Tịch và 1 con gái là Lê Thị Lộc.
Đời 19: Cụ Lãng, kỵ vào tháng 4, có 1 con gái lấy chồng ở Đông Sơn.
Đời 19: Cụ Lê Tởng, kỵ 4 - 02. Cụ bà là Lê Thị Thìn, dòng họ Lê Đình, kỵ 19 - 01. Hai cụ có 1 người con trai duy nhất là Lê Đồng.
Đời 19: Lê Tịch, kỵ 13 - 6. Cụ bà là Phạm Thị Họ, kỵ 18/5/2000. Hai cụ có con trai là Lê Sơn và 7 người con gái.
Đời 19:  Lê Thị Lộc, lấy chồng làng, có 2 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Đồng: Sinh năm 1936, đi bộ đội năm 1961 đến năm 1966 phục viên về làm ruộng ở quê, có 1 thời gian dài là Phó Công an xã Quảng Thắng.  Ông có 2 người vợ, có 2 con trai và 1 con gái.      
Bà cả là Đỗ Thị Tuyết, người cùng làng, sinh ra Lê Bằng. Bà đã bị bệnh ốm nặng một thời gian dài và chết.
          Bà hai là Hà Thị Thanh, quê ở Nga Sơn là y sỹ của Bệnh viện Thanh Hoá. Sinh được 1 con trai Lê Bách và 1 con gái là  Lê Thị Thuỷ.
          * Lê Hữu Bằng: 1966, công nhân thuỷ tinh gốm xứ Hà Nội.  Vợ là Cầm Thị Ly, 1970 làm ruộng ở quê, có 1 con trai, 1 con gái.
          * Lê Hữu Bắc: 1977, sau khi hoàn thành NVQS về quê làm ruộng. Vợ là Nguyễn Thị Hằng, người Ngọc Lặc, làm ruộng
          * Lê Thị Thuỷ: 1982
Đời 20: Lê Thị Hoà, làm ruộng ở quê. Chồng là Đỗ Khắc Hội - Phòng tổ chức chính quyền Thanh Hoá - Đảng viên - Đảng CSVN. Có 3 con gái, 1 con trai.
Đời 20: Lê Thị Hảo, làm ruộng ở quê. Chồng là Vũ Văn Hoàn, người Đa Lộc - Hậu  Lộc đi bộ đội đánh Mỹ, là thương binh, về quê làm ruộng, có 4 con trai, 1 con gái.
Đời 20: Lê Thị Chung. Chồng là Nguyễn Văn Thức, quê ở Thọ Xuân làm ruộng có 1 con trai,1 con gái.
Đời 20: Lê Thị Châu, làm ruộng. Chồng là Lê Đình Minh, người cùng làng, lái xe cho Công ty môi trường đô thị, có 2 con gái, 1 con trai.
Đời 20: Lê Thị Bé. Chồng tên là Nam, bị tai nạn giao thông, có 1 con trai
Đời 20: Lê Thị Bích
Đời 20: Lê Thị Dân, làm ruộng. Chồng là Phạm Văn Khiêm, người cùng làng làm ruộng có 1 con trai.
Đời 20: Lê Sơn:1972. Vợ là Lê Thị Hạnh, dòng Lê Viết, làng Vệ Yên, làm ruộng, có 2 con trai
          * Lê Hồng Thái:1995
                   *Lê Hồng Hải: 2002.


11. GIA PHẢ NHÁNH CỤ LÊ NĂM - Cành ba


đời 17:                               Chi nhánh Cụ Lê Năm                                    Cành ba


 

Đời 18:                                                            Lê Thể
Đời 19:         Thê            Thiết             Soát             Thuyết             Cởm
                                                                         (Vô Tự)                  
Đời 20:    Mưu                 Dọng                     Thạo      Nhẫn     Hạnh    Chung
Chi nhánh này đời thứ 20 nhớ rất ít về quá khứ; Vậy dựng lại chủ yếu từ đời thứ 19.
Đời 19:  Cụ Lê Hữu Thể - Kỵ 24 - 6.     Cụ bà là Nguyễn Thị Rô, kỵ 24 - 9. Hai Cụ có 3 người con là: Lê Thị Toan, Lê Mưu, Lê Mô.
Đời19: Cụ Lê Thiết, kỵ 16 -1. Cụ bà là Lê Thị Dài, kỵ 02 - 4. Hai cụ chỉ có 1 người con duy nhất là Lê Dọng.
Đời 19: Cụ Lê Soát (vô tự)
Đời 19: Cụ Lê Thuyết có 2 con trai thất lạc trước năm 1945 - Gia phả cũng ghi là vô tự.
Đời 19: Cụ Lê Cởm - kỵ 14 - 5.Cụ bà là Đỗ Thị Lân, kỵ 19 - 7
          Hai cụ có 9 người con là Lê Thạo, Lê Nhẫn, Lê Thị Ven, Lê Hữu Hạnh (Liệt sỹ), Lê Thị Hiên (đã mất), Lê Thị Thảo, Lê Thị Nguyên, Lê Hữu Chung và Lê Thị Liên.
Đời 20: Lê Thị Toan lấy chồng làng, là:
Có 3 con trai và 1 con gái.
Đời 20: Lê Hữu Mưu. Bà là Trần Thị Rõ. Ông bà có 5 người con:
* Lê Thị Thiêm: lấy chồng Làng Hạc, định cư ở xã Quảng Thịnh - Quảng Xương, có 3 con gái và 1 con trai.
* Lê Hữu Đặng - 1953: Đi bộ đội phục viên về làm ruộng ở quê. Vợ là Lê Thị Minh, quê ở Thọ Xuân, làm ruộng.
* Lê Thị Thơm: Lấy chồng ở xã Đông Tân, có 1 con trai và 1 con gái.
* Lê Hữu Vinh - 1959: Vợ là Thanh người xã Quảng Thịnh - Quảng Xương, có 2 con trai, 1 con gái.
* Lê Hữu Phú - 1961: Vợ là Nguyễn Thị Thanh, người làng Bố Vệ.
Đời 20: Lê Hữu Mô - 1934, kỵ 6 - 5 -1998 đi bộ đội và thanh niên xung phong thời Chống Mỹ, bị mất giấy tờ gốc, nên chẳng có chế độ gì. Bà là Nguyễn Thị Thư - 1936. Ông bà có 6 người con.
          * Lê Hữu Quang - 1960: Đi bộ đội chiến đấu ở chiến trường Biên Giới năm 1979, phục viên về làm ruộng ở quê. Vợ là Trần Thị Dung - 1961, Đảng viên ĐCSVN; năm 2005 là Bí thư chi bộ.
          * Lê Thị Minh - 1963:
          Chồng là Đỗ Khắc Việt - 1961
          * Lê Thị Liên - 1966:
Chồng là Lê Đình Lai.
          * Còn 3 người con trai nữa là: Lâm, Trường, Hải bị chết trẻ vì bom mìn.
Đời 20: Lê Dọng  - 1940, đi bộ đội trong thời kỳ đánh Mỹ, phục viên về nhà máy Giấy Lam Sơn, sau chuyển sang Công ty xây lắp Điện lực. Đảng viên ĐCSVN, Phó phòng vật tư của Công ty xây lắp Điện  lực mất ngày 15/10/2004. Ông Dọng có 2 vợ.
Bà cả là Nguyễn Thị Nhiên, người cùng làng, kỵ  2 - 7, khi chết Bà là Chủ tịch xã Quảng Thắng, là Đảng viên ĐCSVN. Có 2 con là:
* Lê Thị Hương - 1966: Buôn bán tự do. Chồng là Đinh Văn Dũng - 1961 - Phó Chủ tịch Thị trấn Hà Trung, đảng viên ĐCSVN. Có 1 con trai và 1 con gái.
* Lê Hữu Hải - 1967: Làm ruộng ở quê. Vợ là Trần Thị Bảy - 1972: Làm ruộng ở quê.
Có 2 con trai: Lê Hữu Tuấn Anh và Lê Hữu Long.
Bà hai Nguyễn Thị Vinh - 1953: Người làng Quảng xã Đông Vệ. Năm 1973 học Trung cấp kế toán, năm 1976 về Công ty cổ phần xây lắp Điện lực, đảng viên ĐCSVN - 1995. Có 2 con:
* Lê Thị Hoa - 1979: Giáo viên cấp 3 Như Thanh. Chồng là Lê Văn Tư, người quê ở Như Xuân - Giáo viên THPT Như Thanh, đảng viên ĐCSVN.
* Lê Hữu Hùng - 1981: Cử nhân Bách khoa Hà Nội
Đời 20: Lê Hữu Thạo - 1937: Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Vinh - Nguyên là Hiệu trưởng trường Cấp I-II Xã Quảng Thắng (tạ thế 17.8.1991-tức ngày 8.7 Tân mùi, thọ 54 tuổi). Vợ là Lê Thị Hữu - 1935: Dòng họ Lê Đình làm ruộng ở quê.  Ông bà có 6 người con:
* Lê Hữu Thái  - 1959: Đi nghĩa vụ quân sự về làm ruộng ở quê. Vợ là Lê Thị Thắng: Quê ở Chợ Lưu Vệ - Quảng Xương.Có 2 con trai là Sơn và Phong
* Lê Thị Lan - 1963: Làm ruộng ở quê. Chồng là Ký, người làng Mật, có 2 con trai, 1 con gái.
* Lê Thị Ngọc - 1965: Làm ruộng ở quê. Chồng là Hiển, người xóm Bắc, có 3 con trai.
* Lê Hữu Thanh - 1968: Làm ruộng ở quê, vợ là Lê Thị Hồng, quê ở Chợ Lưu Vệ - Quảng Xương, có 2 con gái.
* Lê Hữu Thọ - 1973: làm ruộng ở quê. Vợ là Nguyễn Thị Thư, có 1 con gái và 1 con trai
* Lê Hữu Thành - 1980: Làm ruộng ở quê. Vợ là Lê Thị Lộc: Quê ở Quảng Xương, có 2 con trai.
Đời 20: Lê Hữu Nhẫn - 1940: Cán bộ Bưu điện về hưu. Bà là Nguyễn Thị Tiệp - 1943: Làm ruộng ở quê. Ông bà có 3 con:
* Lê Hữu Minh - 1966: Đại học Quân Sự - Thượng tá, Chỉ huy trưởng-Ban chỉ huy quân sự Huyện đội Thiệu Hóa-Thanh Hóa, đảng viên ĐCSVN. Vợ là Mai Thị Hà: Người Nga Sơn - làm Nghề kinh doanh. Có 2 con gái là Lê Thị Diệu Huyền (sinh năm 1992) Đại học kế toán và Lê Thị Ngọc Anh (sinh năm 1998) Học sinh chuyên sử - Trường chuyên Lam Sơn, Thanh Hóa
* Lê Thị Hương - 1969: Chồng là Nguyễn Văn Tùng, xã Đông Vệ, có 2 con gái là Nguyễn Mai Linh- Sinh viên Đại học Thương mại và Nguyễn Quỳnh Anh-học sinh trường cấp III Đào Duy Từ
* Lê Hữu Hà: Cử nhân QTKD. Vợ là Mai Lan Anh, Giảng viên Anh văn trường Đại học văn hóa Hà nội. Có 2 con gái là Lê Hà Chi và Lê Hà Minh Châu.
Đời 20: Lê Thị Ven - 1945: Đảng viên ĐCSVN, cán bộ tổ chức Huyện uỷ Quảng Xương về hưu. Chồng là Nguyễn Ngọc Việt: Quê ở Quảng Xương, cán bộ bưu điện về hưu, có 1 con trai (tên là Nhất) 2 con gái (Là Nhị và Tam)
Đời 20: Lê Hữu Hạnh: Nhập ngũ vào quân đội năm 3/1967. Hy sinh ngày 02/3/1970 (Tức ngày 25/1 năm canh Tuất).
Đời 20: Lê Thị Thảo - 1952: Cán bộ phòng tài chính TP Thanh Hoá về hưu. Chồng là Trần Văn Toản, người cùng làng, cán bộ ngành đường sắt về hưu, có 2 con trai (Dũng và Phúc), 1 con gái (tên là Hồng).
Đời 20: Lê Thị Nguyên - 1957: Không lấy chồng làm ruộng ở quê
Đời 20: Lê Hữu Chung - 1959: Làm thợ xây, có 2 con trai là: Lê Hữu Hùng và Lê Hữu Dũng.          Vợ là: Phương, người làng Bố Vệ, định cư ở làng Bố Vệ.
Đời 20: Lê Thị Liên - 1968: Làm ruộng, chồng là Vũ Văn Ngọc, người làng Bố vệ, có 2 con trai.
12. PHÂN NHÁNH CÀNH 1 TẠI THƯỜNG XUÂN




Phân nhánh cành 1 họ Lê Hữu
ở làng hạ - xã thọ thanh - huyện thường xuân
Họ Lê Hữu ở làng Vệ Yên đến đời thứ 13 có sự tách hộ, tách nhánh theo nghĩa: Tỏa muôn nơi lập nghiệp khai cơ. Cụ Lê Hữu Dụng đời thứ 13 lên vùng Tổng Bái định cư. Tổng Bái ngày đó có: Bái Thượng, Bái Hạ và Bái Đô. Cụ Lê Hữu Dụng định cư ở Bái Hạ, nay là làng Hạ - xã Thọ Thanh. Cụ bà tên là Minh, người làng nào, dòng họ nào không rõ. Hai cụ đi với ai lên đây, mang theo bao nhiêu gia hạ, người thân; đi trong hoàn cảnh nào và lên  đây buổi đầu nương tựa vào ai? gia phả không ghi. Hai cụ sinh ra hai người con trai là: Lê Đạo và Lê Thụy. Con gái, cháu gái, con dâu gia phả không ghi. ở làng Hạ họ Lê Hữu phát triển nhanh và toàn diện - như nhiều làng quê khác.
Đời thứ 18 có cụ Lê Hữu Hòe tham gia Chiếu Cần Vương.
Đời thứ 19  có cụ Lê Hữu Am vì lý do kinh tế đã phiêu bạt lên xã Cẩm Bình - Cẩm Thủy làm con ở cho một gia đình người Mán, lập nghiệp và làm thầy đồ ở đó. Cụ lấy vợ và có hai người con trai là: Lê Tài và Lê Hải. Là người Kinh nhưng ở với người Mán, phong tục, tập quán, lễ nghi theo người Mán nên gọi là Tòng Mán.
Đời thứ 19 có cụ Lê Hữu Nghê sau giải phóng Miền Nam được điều vào làm Giám  đốc Sở Lâm nghiệp - tỉnh Thuận Hải. Cụ Nghê có con trai là Lê Hữu Hiền, năm 2007 là trưởng phòng ANQG của Bộ Công an.
Đời thứ 19 có cụ Lê Hữu Bát - Phó Trưởng phòng Giáo dục huyện Thường Xuân.
Đời thứ 20 có bà Lê Thị Vân - Mẹ Việt Nam anh hùng.
Đời thứ 21 có Lê Hữu Sinh - Đại tá chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa.
Tính đến mùa xuân Mậu Tý năm 2008 phân nhánh của cành 1 họ Lê Hữu - xã Thọ Thanh đã có đến đời thứ 23. Có 142 hộ gia đình, không tính gia đình con gái, số khẩu trên 560 người tính theo dòng nam. Số hộ và số khẩu nói trên định cư trên 10 địa danh lớn cả nước, từ Cẩm Thủy đến Thanh Hóa đến Hà Nội và nhiều tỉnh ở Miền Nam. Phân nhánh này có rất nhiều người thành đạt, bằng Cao đẳng, bằng Cử nhân có rất nhiều, nhiều người là cán bộ trung cao cấp; Họ phục vụ trên nhiều ngành của Nhà nước, của xã hội. Có 11 liệt sỹ cả trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ - chủ yếu là đời 20 và 21; có 01 mẹ Việt Nam anh hùng. Xa quê, xa tổ, phân nhánh này vẫn góp công, góp sức viết tiếp trang sử vàng của dòng họ - rất đáng kính trọng. 
Hàng năm con cháu các nơi tụ về làng Hạ làm giỗ Tổ vào ngày rằm tháng giêng. Về làng Hạ là về với nguồn cội. Ai ai cũng muốn về. Hằng năm thay nhau mà về. Về để báo công lên Tiên Tổ.
Chi nhánh của cành 1 họ Lê Hữu ở làng Hạ hằng năm vào ngày 10 tháng giêng đội lễ về làng Vệ Yên - xã Quảng Thắng để làm giỗ Tổ, gọi là giỗ Đại Thủy Tổ họ Lê Hữu. Theo truyền thống tâm linh, bát hương Đại Thủy Tổ họ Lê Hữu về làng Vệ Yên từ năm 1527 khi chạy loạn nhà Mạc, cụ Lê Thiện về ẩn quan ở Vệ Yên và bát hương Đại Thủy Tổ cũng đưa về từ đó. Phân nhánh của cành 1 về chịu giỗ ở Vệ Yên với lý do nguồn cội như vậy.
Phân nhánh này có sơ đồ phả hệ và lý lịch riêng.

                        * GIA PHẢ CÀNH BỐN - NGHỆ AN


(Chưa có tư liệu để cập nhật, xin thành thật cáo lỗi)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét