Giới thiệu họ Lê Hữu
Năm 1612 từ đường xây xong, vua Lê Kính tông từ Thăng Long gửi về bức đại tự đề 4 chữ “Khánh nguyên thùy thế”
VÀI NÉT GIỚI THIỆU VỀ DÒNG HỌ LÊ HỮU - NHÀ THỜ HỌ
Dòng
họ Lê Hữu phát triển tại Vệ Yên, Quảng Thắng, Thành phố Thanh Hoá là một dòng họ “Thế phiệt trâm anh”. Lịch sử đã ghi nhận những mốc
son chói lọi về sự nghiệp của dòng họ: Từ thế kỷ 20 trở về trước, dòng
họ Lê đã có 2 lần lập nên triều đại vương quyền: Tiền Lê và Hậu Lê, tổng cộng
gần 400 năm trị vì đất nước. Hoàng đế Lê Hoàn đã lãnh đạo nhân dân chống giặc Tống
xâm lược, anh hùng Lê Lợi đánh đuổi quân Minh; vua Lê Thánh Tông bình Chiêm trừ
hậu hoạ và phát triển đất nước về chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục và nhiều
lĩnh vực khác lên một tầm cao mới.
Theo gia phả dòng họ Lê Hữu (lưu tại
nhà thờ) thì dòng họ Lê Hữu ở làng Vệ Yên hiện nay có nguồn gốc từ dòng họ
Hoàng đế Lê Lợi. Thuỷ tổ là cụ Lê Hối (cụ nội của Hoàng đế Lê Lợi), sinh ra ông
lê Đinh đến đời ông Lê Khoáng (con ông Lê Đinh), sinh được 3 người con trai: Lê
Học, Lê Trừ, Lê Lợi. Lê Lợi là linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân Minh,
suốt 10 năm “nếm mật nằm gai” lãnh đạo
nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến chống giặc Minh thắng lợi, giành độc lập tự
do cho dân tộc. Ông được người đời tôn vinh là anh hùng áo vải đất Lam Sơn. Hết
bóng quân thù ông làm lễ hoàn gươm và về Đông Đô lo việc dân, việc nước. Người
anh thứ 2 là Lê Trừ ở quê nhà Lam Sơn lo việc làng, việc họ, cúng giỗ tổ tiên,
xây từ đường họ Lê. Năm 1527, loạn nhà Mạc (nghịch thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi
vua Lê Cung Hoàng), triều đình nhà Lê tạm lánh về các miền quê của tổ quốc để
từng bước khôi phục giang sơn đất nước. Trang Giản Vương Lê Thiệu (là chắt
của cụ Lê Trừ) cùng gia đình về Vệ Yên (Phường Quảng Thắng, Thành Phố Thanh Hóa
ngày nay) khai cơ, lập ấp phát triển dòng Họ Lê Hữu. Bát hương hội đồng thờ liệt
tổ, liệt tông nhà Hậu Lê được hai cụ tôn lập, thờ: Triệu tổ Cao Hoàng Đế Lê Hối
(cụ nội Lê Lợi), Tuyên hổ phác Hoàng Đế Lê Đinh (ông nội của Lê Lợi), Hiển Tổ
Thạch Hoàng đế Lê Khoáng (thân phụ của Lê Lợi) và các vị liệt tổ, liệt tông
khác.
Năm 1600, vua Lê Kính Tông (tức Lê Duy
Tân) hạ chiếu điều cháu là Quan Tư Mã Tham Chính Tướng Công Lê Đạt từ Nghệ An
về bảo quản giáp Vệ Yên. Cụ Lê Đạt kế nghiệp cha ông lo việc Nước, việc nhà,
việc họ, xây dựng nhà thờ họ Lê Hữu ở thông Vệ Yên.
Năm 1612, khi loạn nhà Mạc được dẹp
yên, vua Lê Kính Tông từ Đông Kinh gửi về cung tiến từ đường họ Lê Hữu bức đại
tự đề 4 chữ vàng "Khánh Nguyên Thuỳ Thế" có
nghĩa là “ Nguồn lớn lao, trải mãi các đời”.
Cũng từ đó nhà thờ họ Lê Hữu là nơi thờ tự những vị tiên tổ có công khai sáng
triều Lê và mở mang xây dựng làng Vệ Yên cho đến ngày nay.
Từ năm 1612 đến nay Từ đường họ Lê Hữu tồn
tại hơn 400 năm tuổi và được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh. Trải qua bao
biến cố thăng trầm của lịch sử cùng với sự tác động của thời gian, từ đường họ
Lê Hữu có phần xuống cấp nhưng con cháu họ Lê Hữu đã đồng lòng, đồng sức góp ý
tưởng, tiền của để trùng tu, tôn tạo, đến nay chúng ta đã có một ngôi từ đường
khang trang, tôn nghiêm để phụng thờ tiên tổ thoả lòng ước nguyện của bà con, cô
bác, anh em nội ngoại, con cháu gần xa.
LÝ
LỊCH HỌ LÊ HỮU
Thôn
Vệ Yên - xã Quảng Thắng - TP.Thanh Hóa
Phần một: Nhân sự - Trực hệ
Họ Lê Hữu bắt đầu từ cụ Lê Hối, người thôn Như áng, cụ
bà là Nguyễn Thị Ngọc Duyên, người thôn Quần Đội. Cụ bà làm ruộng, cụ ông dạy
học. Ngày nhàn rỗi cụ ông hay đi chơi ở núi Lam Sơn, thấy một nơi có nhiều quạ
đỗ, ví như đông người tụ hội. Cụ biết đây là mảnh đất tốt, cụ cho gia nhân đem
nhà ra đó dựng, ở và lập ấp gọi là ấp Du Sơn. Ba năm sau Du Sơn thành trang
trại lớn, có nhiều gia hạ cùng ở cùng làm.
ở
Du Sơn cụ Lê Hối sinh ra cụ Lê Đinh. Cụ Lê Đinh lấy cụ bà là Nguyễn Thị Ngọc
Quách, người làng Xuân Lam. Hai cụ có hai người con trai là Lê Tòng và Lê
Khoáng. Cụ Lê Tòng không có con trai - thất truyền. Cụ Lê Khoáng, cụ bà là
Trịnh Thị Ngọc Thương, hai cụ có ba người con trai là Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi.
Cụ Lê Học mất sớm, có một người con trai đi đánh giặc
với chú là Lê Lợi, bị tử trận nên thất truyền. Cụ Lê Trừ thành dòng trưởng. Cụ
Lê Lợi lo việc nước, cụ Lê Trừ lo việc nhà, việc họ. Khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng
Đế đã truy tôn:
Cụ Lê Hối là Triệu tổ Cao Hoàng Đế, cụ bà là Phổ từ
Hoàng Thái Hậu "Triệu Tổ là người gây dựng"
Cụ Lê Đinh là Tuyên Hổ Phác Hoàng Đế, cụ bà là Chính
từ Hoàng Thái Hậu.
Cụ Lê Khoáng là hiển tổ Thạch Hoàng Đế, cụ bà là Hiển
từ Hoàng Thái Hậu.
Cụ Lê Trừ, cụ bà là Lê Thị Ngọc Lăng, người thôn Thái
Lai, được truy phong là Hoàng Dụ Vương
và Trinh Cẩn Thái Phi. Hai cụ có ba người con trai là Lê Khôi, Lê
Khang và Lê Trạch. Cụ Lê Khôi đi đánh
giặc với chú là Lê Lợi. Đánh giặc song cụ được giao chấn ải ở Hà Tĩnh và mất ở
Hà Tĩnh. Cụ Lê Khang lo việc nhà, việc họ. Cụ Lê Khang, cụ bà là Lê Thị Ngọc ái
được phong là Quỳ Quốc Công và Đoan Thúy Thái Phi. Hai cụ sinh ra cụ Lê Khánh.
Cụ Lê Khánh, cụ bà là Lê Thị Ngọc Đoan, được phong là
Quang Nghiệp Vương và Đoan Thuận Thái Phi. Hai cụ sinh ra cụ Lê Thiện. Năm 1527
loạn nhà Mạc. Nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê. Cụ Lê Thiện cùng gia quyến chạy về làng
Vệ Yên ẩn quan. Họ Lê Hữu có mặt ở làng Vệ Yên từ đó. Cụ Lê Thiện, cụ bà là Lê
Thị Ngọc Tuệ được truy tôn là Trang Giản Vương và Tuy Lý Thái Phi, nối dòng cụ
Lê Trừ bát hương nhà thờ tổ cũng theo cụ Lê Thiện về làng Vệ Yên Từ đó.
Cụ Lê Thiện sinh ra cụ Lê Trầm, có nơi viết là Lê
Qương, sách sử ghi là Lê Tiên. Cụ Lê Trầm, cụ bà là Phạm Thị Ngọc Lân, hai cụ
là ông nội của vua Lê Anh Tông, được
truy tôn là Hiển Tôn Nhân Hoàng Đế và Từ khâm Hoàng Thái Hậu.
Cụ
Lê Trầm có sáu người con trai. Gặp thời tao loạn và đói kém, thất lạc mất bốn
người. Tại làng Vệ Yên còn lại cụ Lê Cơ và cụ Lê Cư. Cụ Lê Kiên mãi cuối thể kỷ
XX con cháu mới tìm về.
Cụ Lê Cơ lấy cụ bà là Trần Thị Phác, người làng Kiều
Đại, định cư ở làng Kiều Đại, sinh ra Lê Duy Bang - Vua Lê Anh Tông. Cụ Lê Cư ở
làng Vệ Yên. Cụ Lê Cơ mất sớm, cụ Lê Cư thay dòng trưởng lo việc nhà, việc họ.
Khi Lê Duy Bang lên ngôi Vua Lê Anh Tông đã phong cho chú là cụ Lê Cư, là Hoàng
Quang Đại Vương và phong cho cụ Lê Lân - Em con nhà chú - con cụ Lê Cư là Minh
Mẫn Đại Vương.
Lê Duy Bang lo việc nước. Cụ Lê Lân nối nghiệp cha lo
việc nhà, việc họ. Minh Mẫn Đại Vương Lê Lân sinh ra cụ Lê Đạt - Tư Mã Tham
Chính tỉnh Nghệ An. Cụ Lê Đạt, cụ bà là Trịnh Thị Hoan, hai cụ có 07 người con
trai.
1- Lê Quỳ - Vô tự
2- Lê Nhiên - có 03 người con trai chết bệnh dịch năm
Kỷ Dậu.
3- Lê Chí - Tổ cành 1
4- Lê Lệ - Vô tự
5- Lê Mai - Tổ cành 2
6- Lê Vũ - Tổ cành 3
7- Lê Nghiêm Công - Tổ cành 4 ở Quỳnh Vinh - Nghệ An.
Theo
sơ đồ phả tộc cụ Lê Hối là đời thứ nhất, cụ Lê Đạt đời thứ 11, các cụ Lê Chí,
Lê Mai, Lê Vũ ở làng Vệ Yên là đời thứ 12.
Năm 1600 cháu nội cụ Lê Duy Bang là Lê Duy Tân lên
ngôi Vua Lê Kính Tông, đã ban cho chú là cụ Lê Đạt về bảo quản giáp Vệ Yên. Cụ
Lê Đạt kế nghiệp ông, cha lo việc nhà, việc họ, lo xây dựng nhà thờ họ Lê Hữu ở
thôn Vệ Yên.
Năm
1612 khi loạn nhà Mạc được dẹp yên, Vua Lê Chúa Trịnh không có hiềm khích nặng
nề, mâu thuẫn giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn tạm lắng, con cháu cụ Lê Duy Bang
có điều kiện nghĩ về họ Mạc. Từ kinh đô gửi về bức Đại tự đề bốn chữ: Khánh
Nguyên Thùy Thế để khánh thành nhà thờ họ Lê Hữu, có niên đại: Thăng Long Xuân
Nhâm Tý - tra ra là năm 1612. Nhà thờ họ Lê Hữu có ở làng Vệ Yên từ năm 1612.
Từ đó đến các năm đầu của thế kỷ XXI và tiếp sau, hậu duệ của cụ Lê Đạt vẫn
chăm chỉ hương khói phụng thờ Tiên Tổ - Từ đường họ Lê Hữu thôn Vệ Yên.
Phần hai: Từ đường
Trước kia tại làng Vệ Yên - xã Quảng Thắng họ Lê Hữu
có nhà thờ họ và Điện thờ hai bà cô Tổ họ Lê. Nhà thờ Tổ ở Nguyên vị trí hiện
tại, Điện thờ hai bà cô Tổ ở bên phải nhà thờ họ và chếch lên phía trước 5 mét.
Cả nhà thờ và điện thờ gọi chung là Từ đường họ Lê Hữu. Từ đường xưa có bia đá,
ngựa đá, khánh đá, rùa đá và tắc tải bằng đá ... Khi hợp nhất các hợp tác xã
nông nghiệp thành hợp tác xã toàn xã, khu mộ tổ ở Cồn ổi được di chuyển để làm
sân kho, trụ sở và kho của HTX. Mộ tổ họ Lê dời về khu Mã Xã. Điện thờ của 2 bà
cô Tổ bị phá. Các đồ thờ bằng đá bị đập lấy đá nung vôi. Hai pho tượng của hai
bà cô Tổ phải chuyển vào chính tẩm của nhà thờ họ để bảo vệ. Gia phả, các sắc
phong và nhiều đồ thờ bằng gỗ, bằng vải, bằng giấy ... bị ẩm mục, hư hỏng không
còn nữa.
Truyền
thống của họ Lê Hữu ta mỗi lần giỗ tổ, họp họ, Hội đồng trị sự của họ kêu gọi
con cháu đóng góp tiền của, công sức, trí tuệ, mỗi năm tu sửa nhà thờ họ một
ít. Từ những năm 90 của thế kỷ 20, mức độ tu sửa nhiều hơn, nhanh hơn. Đến cuối
năm 2005 khu Từ đường đã tương đối hoàn chỉnh, có:
*
Chính tẩm của nhà thờ họ nguyên như cũ.
* Bên trái chính tẩm nhà thờ họ xây dựng bổ sung chính
tẩm hai bà cô Tổ họ Lê.
*
Sảnh đường xưa thấp, hẹp được tôn cao, mở rộng và xây dài hết hai chính tẩm - 4
gian.
*
Trước sảnh đường là sân nhỏ láng xi măng sạch sẽ.
*
Gác chuông xây cao, trên treo chuông, dưới kê khánh đá.
Trong
sảnh đường, trước chính tẩm nhà thờ tổ:
-
Trên cao treo bức đại tự - 4 chữ - khánh nguyên Thùy thế.
-
Dưới đại tự có câu đối gỗ treo đầu cột, đề.
Lam
động Hoàng Lê phò ngọc bệ
Khai cơ hữu dụ vệ an Kim.
Hai
bên cửa chính tẩm nhà thờ Tổ có đôi câu đối viết trên tường cửa.
Phật
sơn phảng phất xu bồi hạ
Tiên
lĩnh liên sảng tuấn khí gian.
Có
người đọc vế đối là: Tiên lĩnh khương ưu vượng
khí gian.
Trong chính tẩm có 3
ỉ giả, trên ỉ gia đặt bài vị.
Bên
phải là bài vị, phiên âm nguyên văn:
Tố cố Lê Triều tặng phong Hoằng quang đại vương Lê
tướng công. Tự
đức Cư thần vị.
Bên trái là bài vị: Tổ cố Lê Triều
tặng phong minh mẫn đại vương Lê Tướng Công tự đức Lân chi thần vị.
Phía
trước là bài vị, phiên âm nguyên văn là:
Thủy
Tổ Tiền cố Lê triều Tư Mã tham chính Nghệ an
Lê
Tướng công tự Đức Đạt thần vị
Sau
này ông bà Lê Hằng ở Hải Phòng về có đưa vào chính tẩm nhà thờ họ pho tượng Lê
Lợi.
Trong chính thẩm hai
bà cô Tổ (có hai pho tượng cổ của hai bà):
Bên
phải là bà chị:
Đệ
nhất Lê Lang
Tiên
dung công chúa Mai Hoa
Hiệu
diệu Tuyết Quỳnh
Quy
tại chùa Hương Tích.
Bên
trái là bà em:
Đệ
nhị Lê Lang
Quế
hoa công chúa
Mỹ
nữ Tôn Năng
Xuân
Hoa Lệ Nương
Thường
ngày thắp hương vào sáng sớm và đầu tối cả 2 chính tẩm. Các ngày tuần hương
khói phụng thờ từ sáng sớm ngày 30 và 14, hóa vàng vào tối 01 và rằm.
Phần
ba: lăng mộ
Mộ
tổ của họ Lê Hữu ở làng Vệ Yên - xã Quảng Thắng xưa kia rất hoành tráng: To,
rộng, cao, có bia vuông bằng đá, bốn mặt khắc chữ theo nghi thức Hoàng tộc.
Hung táng ơ nơi nào, gia phả không ghi, ở cồn ổi là mộ cát táng.
Mộ rất to, phủ kín một khuôn đất rộng năm trăm mét
vuông. Đầu mộ như gối lên một quả núi to ở xa xa, đó là hướng Tây, cũng là
hướng về Tây chúc. ở một khoảng cách rộng hơn về hai phía, có hai dãy núi như
hai con rồng chầu vào phía đầu mộ. Cuối mộ là hướng Đông, có biển Đông, đúng là
chân đạp biển. Xung quanh mộ là những cánh đồng và làng xóm, từ xa trông rất
mát mắt.. Mộ đặt ở một vị thế tuyệt vời, có ý nghĩa sâu sắc, gợi nhiều suy ngẫm
lớn lao.
Mộ Tổ họ Lê rất to. To đến mức những năm chiến tranh
chống Mỹ, nhiều người đã đào hầm tránh máy bay ở thân mộ, ở sát chân mộ, mong
được che chở an toàn.
Từ mộ Tổ nhìn về phía Đông, qua một quãng đồng, một
con mương nhỏ, có một cái hồ bán nguyệt, khoảng 500m2. Mặt cong nhỏ
của hồ bán nguyệt quay về hướng đông, nhận khu đất nổi cao hình lưỡi liềm, rộng
khoảng 200m2 làm bờ, khu đất nổi ấy là lăng cửa Chăm. Xa xưa gọi là
cồn cửa Chăm. Một tuyệt tác có từ bao đời, không ai biết. Chỉ thấy giữa cánh
đồng lúa xanh mát, có một cái hồ, hồ ôm lấy cồn, cồn in bóng xuống hồ, che chắn
gió đông cho mặt hồ gợn sóng lăn tăn, tuyệt đẹp. Người xưa ví đây như một bát
nước phong thủy, giữa cánh đồng lúa vàng, chứa ẩn điều gì đó thầm kín. Họ Lê
Hữu chọn cồn cửa chăm xây bàn thờ thổ thần và bàn thờ Tổ, các táng mộ cụ Lê
Đạt, cụ Lê Chí ở đó. Bàn thờ thổ thần và bàn thờ Tổ có niên đại 1605. Mộ cụ Lê
Đạt quay về hướng Bắc. Bàn thờ thổ thần, bàn thờ Tổ, mộ cụ Lê Trí quay chếch về
hướng Tây Bắc, hướng về mộ tổ. Cồn cửa Chăm có tên gọi mới: Lăng Cửa Chăm từ
đó.
Năm tháng qua đi, nhất là sau khi có chính sách khoán
sản, lăng cửa Chăm bị cuốc, vạt nhỏ dần, hồ bị san lấp thành ruộng cấy lúa. Năm
1982 quyền trưởng họ - Anh Lê Hữu Lộc xin xã đạc lại và giao cho họ Lê Hữu bảo
quản lăng cửa Chăm. Từ đó từng năm con cháu họ Lê đã cung tiến tiền của, công
sức, lăng cửa Chăm được kè đá, xây tường bao, lát nền và tu sửa thêm đẹp. Năm
2002 mộ cụ Lê Mai, cụ Lê Vũ cũng được quy về Lăng Cửa Chăm.
Khi hợp nhất các hợp tác xã nông nghiệp, thành HTX
toàn xã, UBND xã Quảng Thắng quyết định rời các mộ ở còn ổi đi nơi khác để lấy
đất làm sân kho, nhà kho và trụ sở HTX. Xã điều đội thủy lợi (đội 202) tới bốn
năm chục người, đào bới, khai quật mấy ngày mới tới phần quách. Phá quách mới
thấy quan tài - đúng là trong quan ngoài quách.
Theo nghi thức cung đình, khi cát táng, hài cốt được
đặt vào trống đồng. Trong mộ có một trống đồng to và bảy trống đồng nhỏ. Xung
quanh là kiếm, mác, dìu, nhiều tên bằng đồng và các đồ dùng bằng đá khác của
Hoằng quang Đại Vương Lê Cư, minh mẫn đại vương Lê Lân. Các vật dụng ấy rất
nhiều, được xếp đặt có thứ tự theo nghi thức của cung đình.
Mộ quật lên, bà Hồ Thị Mai (con dâu trưởng của họ) cho
đem hài cốt và các vật dụng trong mộ về bày ở sảnh đường nhà thờ Tổ, cúng lễ
nhiều ngày. Một là để tri ân công đức các cụ, hai là để chọn ngày, giờ, địa
điểm cho cẩn thận. Vì đây là bậc vương gia của Hoàng tộc, không được phép sơ
sểnh.
Tiếng lành đồn xa, để nhiều ngày không lợi. Khi chưa
kịp cát táng lại, khoa Sử của trường Đại học Sư phạm Hà Nội khi đi thực tế ở
Núi Đọ thuộc Thanh Hóa, họ đã nghe và biết, nên đã đem nhiều giấy tờ của nhiều
cấp về, xin mất chiếc trống đồng to. Những trống đồng nhỏ còn lại có người
trong họ ỉ quyền thế lấy về thờ riêng. Khi cát táng lại chỉ còn hài cốt và các
vật dụng cua hai cụ, được đưa vào hai tiểu sành. Mộ cát táng lại vẫn là song
táng, cát táng ở Mã Xã, quy một chiều 7m và một chiều 5m. Các vật dụng có được
đặt vào mộ, tuy đủ nhưng thứ tự có khác, vì người nhặt lên và người đặt xuống
khác nhau, không hiểu nghi thức cung đình.
Văn bia ở mộ Tổ có hình vuông ghi là:
Tổ Lê Cố Hoàng Quang Đại Vương Lê Cư
Tổ Minh Mẫn Đại Vương Lê Lân phụ táng chi mộ
Nhị Đại tổ tư mã tham chính Nghệ An - Lê Đạt, mộ Cồn
ổi
Tổ Chi Trưởng Lê Thông táng tại cồn? Tổ Chi thứ hai Lê
Hỷ táng ở Cồn Trà. Tổ Chi thứ ba Lê Di táng ở Cồn ? - Các bia mộ này đều là bia
vuông theo nghi thức dòng Hoàng tộc.
Phần
bốn: ngày giỗ tổ
Ngày giỗ Tổ họ Lê Hữu ở thôn Vệ Yên - xã Quảng Thắng -
Thành phố Thanh Hóa là ngày mùng mười tháng giêng hàng năm. Còn tại sao lại lấy
ngày mùng mười thì không ai biết.
Phải chăng đây là ngày giỗ cụ Lê Hối?
Phải chăng đây là ngày cụ Lê Hối chuyển gia đình từ
thôn Như áng ra trang trại Du Sơn để ở? Vì cho đó là nơi phát nghiệp Đế Vương
của Lê Lợi và của họ Lê Hữu.
Phải chăng đó là ngày Lê Lợi gặp tôn sư họ Trịnh, hiệu
là Bạch Thạch Sơn Băng, ngài đã chỉ cho Lê Lợi mảnh đất phát nghiệp Đế Vương?
Phải chăng đó là ngày giỗ của cụ Lê Trầm ông nội của
Vua Lê Anh Tông?
Vì gia phả không ghi nên mọi hiểu biết về ngày mùng
mười tháng giêng chỉ là dự đoán. Trong nghị bàn, mọi khía cạnh được nêu ra, có
lập luận để lấy ra những dự đoàn đúng. Những điều nêu trên có ngày mùng mười
tháng giêng năm Nhâm Thân - 1412 Lê Lợi 28 tuổi, gặp tôn sư họ Trịnh, hiệu là
Bạch Thạch Sơn Băng, ngài đã chỉ cho Lê Lợi mảnh đất phát nghiệp Đế Vương. Đó
là ngày có ý nghĩa bao trùm nhất.
Hằng năm theo lệ trời, ngày mùng chín tháng giêng là
ngày lễ mở cổng trời, mọi nơi tế lễ ngày này xong, ngày sau mùng mười tháng
giêng đi làm. Các gia hạ của trang trại Du Sơn đi làm, gặp tôn sư họ Trịnh hạ
sơn đi du xuân vào ngày mồng mười là rất hợp lý. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với tôn
sư, nghiệp Đế Vương của nhà Hậu Lê mới phát.
Ngày nay Hậu Duệ sau khi cúng lễ ngày mùng chín tháng
giêng thì bắt tay vào cúng tế ngày giỗ Tổ để rồi bắt đầu cho một năm mới vui vẻ
yên lành là Đại Lợi.
Phần năm: bát hương thờ
Truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt
Nam là: Con thờ cha mẹ, con cháu thờ cha mẹ, ông bà. Truyền thống ấy có từ ngàn
đời. Nhà đông anh em, việc thờ cúng là trách nhiệm của bậc trưởng. Các bậc thứ
đoàn kết cùng bậc trưởng lo thờ cúng cha ẹm, ông bà. Nhà đông anh em, ở phân
tán rộng,các bậc thứ được phép lập bàn thờ, thờ cúng cha mẹ, ông bà, nhưng chỉ
là thờ vọng, thờ chính vẫn là bậc trưởng.
Xưa có câu: Ngũ đại mai thần chủ, nghĩa là cụ năm đời
trở lên không có người thờ cúng. Nói vậy chưa hẳn đúng. Hãy hiểu rằng: Cụ năm
đời trở lên,các bậc thứ không thờ cũng được, chỉ còn bậc trưởng thờ cúng, có
như vậy mới đúng nghĩa: Uống nước nhớ nguồn.
Bậc
trưởng có thể lập phòng thờ, gian thờ, nhà thờ để thờ từ cha mẹ, ông bà, cụ kỵ
nhiều đời trở lên. Nơi đó gọi là gian thờ gia tiên, gian thờ tổ, nhà thờ tổ, nhà
thờ họ, từ đường họ... Người đầu tiên sinh ra con, cháu, chắt, chút, chít ...
gọi là tổ tiên, tổ họ, gia tiên tiền tổ ... gọi chung là tiên tổ hoặc tổ họ.
Thờ
càng nhiều đời, trong năm sẽ có nhiều ngày giỗ. Bậc trưởng phải lo nhiều giỗ.
Vậy từ cụ Ngũ đại trở lên, ngày giỗ của từng người không còn, thờ chung vào một
ngày trong năm hoặc thờ chung vào ngày giỗ của cụ Tổ. Có nơi quên ngày giỗ của
cụ Tổ, họ có thể chọn một ngày hoàng đạo của một tháng nào đó trong năm, thống
nhất dặt ra ngày giỗ chung, gọi là ngày giỗ Tổ, giỗ Họ. Các năm sau cứ ngày đó
mà cúng giỗ, gọi là ngày giỗ Tổ, giỗ Họ. Đó là đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Trong ngày giỗ, các bậc từ: cao cao chi chi, cao cao chi tổ, cao tằng tổ tỉ,
cao tằng tổ khảo, thúc bá đệ huynh, cô dì tỉ muội... đều được mời về nhà thờ
Tổ, ngồi theo thứ tự chi, cành, trên, dưới để được phụng thờ, được hậu duệ bái
tạ đáp ơn, đúng nghĩa uống nước nhớ nguồn. Đó là ngày giỗ Tổ, giỗ Họ.
Theo
sơ đồ gia phả của họ Lê Hữu, tổ tiên họ Lê Hữu là cụ Lê Hối - đời thứ nhất, đời
thứ hai là cụ Lê Đinh, cụ Lê Đinh có 2 người con trai là cụ Lê Tòng và cụ Lê
Khoáng. Cụ Lê Tòng không có con trai nên thất truyền, nối dòng là cụ Lê Khoáng.
Cụ Lê Khoáng có 3 người con trai: Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi. Cụ Lê Học có 1
người con trai đi đánh giặc với chú Lê Lợi đã hy sinh nên dòng cụ Lê Học thất
truyền, dòng cụ Lê Trừ thành trực hệ - dòng trưởng.
Cụ Lê Trừ có 3 người con trai: Cụ Lê Khôi, cụ Lê Khang
và cụ Lê Trạch. Cụ Lê Khôi đi đánh giặc với chú là Lê Lợi sau được bổ làm quan,
chấn ải ở Hã Tĩnh, khi qua đời mộ và
miếu ở Hà Tĩnh. Tại quê dòng cụ Lê Khang nối hệ, Cụ Lê Khang sinh ra cụ Lê
Khánh, cụ Lê Khánh sinh ra cụ Lê Thiện.
Năm
1527 nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, cụ Lê Thiện cùng gia đình về làng Vệ Yên ẩn
quan. Họ Lê Hữu có ở làng Vệ Yên - xã Quảng Thắng từ đó. Việc thờ cúng tổ tiên
theo dòng trực hệ và giỗ tổ của họ Lê Hữu cũng có ở làng Vệ Yên từ đó.
Khi chạy loạn, bát hương, bài vị không mang theo được.
Một nho gia, vương gia với đẳng cấp và địa vị như cụ Lê Thiện, đã định cư ở Vệ
Yên rồi, bát hương cụ Triệu Tổ sẽ được tôn vọng để vọng thờ.
Từ
cụ Triệu tổ Lê Hối, đến cụ Lê Thiện là 7 đời. Từ vua Lê Thái Tổ đến vua Lê Cung
Hoàng là 7 đời vua. Thời tao loạn, chạy ẩn quan, chưa có nhà thờ tổ, bát hương
cụ Lê Thiện tôn vọng là bát hương hội đồng - vọng thờ chung.
ở
làng Vệ Yên cụ Lê Thiện sinh ra cụ Lê Trầm. Cụ Lê Trầm được phong là Đông Lâu
Bá và truy tôn là Hiển Tôn Nhân Hoàng Đế. Cụ bà là Phạm Thị Ngọc Lân được truy
tôn là Từ Khâm Hoàng Thái Hậu. Hai cụ là ông bà nội của Vua Lê Anh Tông. Hai cụ
có 6 người con trai, gặp lúc loạn lạc và đói kém, con các cụ bị lưu lạc 4
người. Tại làng Vệ Yên còn cụ Lê Cư. Cụ
Lê Cơ là anh cả lấy vợ và định cư thôn Kiều Đại. Cụ Lê Kiên đến nửa cuối thế kỷ
20 hậu duệ mới tìm về, còn thất lạc 3 người.
Thời
cụ Lê Trừ: Cụ Lê Học mất sớm, có 01 người con trai đi đánh giặc với chú Lê Lợi,
đã hi sinh; Cụ Lê Khôi là con trưởng nhưng ở Hà Tĩnh; dòng cụ Lê Lợi lo việc
nước, việc gia tiên, họ tộc cụ Lê Trừ lo và truyền cho cụ Lê Khang.
Thời
cụ Lê Cư: Khi Lê Duy Bang lên ngôi vua Lê Anh Tông, Lê Duy Bang lo việc nước,
cụ Lê Lân lo việc gia tiên họ tộc.
Đời
cụ Lê Đạt: Bàn thờ thổ thần, bàn thờ tổ ở Lăng Cửa Chăm được xây dựng 1605. Nhà
thờ tổ, điện thờ hai bà cô Tổ được xây dựng năm 1612.
Bức
Đại tự: “Khánh Nguyên Thùy Thế” có người dịchl là: Ngôi báu về dòng trưởng,
niên đại đề Thăng Long xuân Nhâm Tý, tra ra là 1612. Năm đó loạn nhà Mạc được
dẹp ổn, mâu thuẫn giữa Vua Lê và Chú Trịnh tạm lắng. Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn
cầm hòa, hậu duệ của cụ Lê Duy Bang có điều kiện nghĩ về họ tộc, đã gửi bức Đại
tự ấy về khánh thành nhà thờ họ.
Tại
làng Vệ Yên - xã Quảng Thắng: Họ Lê Hữu về định cư từ năm 1527. Lăng mộ tổ có
trước năm 1600. Bàn thờ Thổ Thần, bàn thờ Tổ ở Lăng Cửa Chăm, được lập năm
1605. Nhà thờ Tổ, điện thờ hai bà Cô Tổ khánh thành năm 1612. Bát hương thờ Hội
đồng gia tộc được cụ Lê Thiện tôn vọng - Vọng thờ chung sau năm 1527. Ngày giỗ
họ - giỗ tổ mùng 10 tháng Giêng theo cụ
Lê Thiện về làng Vệ Yên sau năm 1527. Ngày Hội giỗ mùng 10 tháng Giêng có quy
mô rộng lớn, thường niên tính từ cuối đời cụ Lê Đạt. Lúc ấy họ Lê Hữu đã hình
thành 4 cành để rộng lớn như ngày hôm nay.
TRUNG HƯNG HOÀNG ĐẾ
-------------
Đất nước Việt Nam ta, dân tộc Việt Nam
ta có chiều dài lịch sử hơn bốn nghìn năm. Hơn bốn nghìn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước biết mấy thăng trầm. Những giai đoạn trầm đó là những gia đoạn
mất nước. Cả dân tộc, cả đất nước chìm đắm dưới ách đô hộ của ngoại bang. Nước
mất: Quyền tự chủ mất, lịch sử của dân tộc bị dìm bỏ, phải sống theo điều khiển
của ngoại bang. Phong tục, tập quán, ngôn ngữ, chữ viết và cả nền văn hóa phải
tuân theo ách đô hộ. Tên nước không còn, đất nước không có vua- không có mặt
trời, là quận huyện của ngoại bang, coi nước đô hộ là quốc mẫu.
Người đứng lên khởi nghĩa, đập tan ách
đô hộ, giành quyền độc lập, chủ quyền cho đất nước đó là người Trung Hưng đất
nước - Trung Hưng Hoàng đế.
Trong nghiên cứu lịch sử của dân tộc
Việt Nam, các nhà sử học tôn vinh Trung Hưng Hoàng đế của nước ta có 03 người,
đó là: Ngô Quyền, Lê Lợi và Hồ Chí Minh.
- Kết thúc câu chuyện tình của Trọng
Thủy với Mị Châu, nhà Triệu - Triệu Đà chính thức đô hộ đất nước ta từ năm 207
trước Công nguyên. Năm 111 trước Công nguyên nhà Hán đổi nước Nam Việt thành
Giao Chỉ Bộ và chia làm 9 quận để cai trị. Đây là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
nhất.
- Sau khi Mã Viện đánh thắng Hai Bà
Trưng năm 43 sau Công nguyên, đất nước ta rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ
hai.
- Sau khi tiêu diệt Triệu Quang Phục,
Lý Phật Tử dựng lại nghiệp Lý Nam Đế. Nhà Tùy đem quân đến biên giới uy hiếp,
Lý phật Tử sợ nên đã đầu hàng. Nam Việt rơi vào tay nhà Tùy năm 602. Thời kỳ
Bắc thuộc lần thứ ba.
- Năm 939, con rể của Dương Đình Nghệ
là Ngô Quyền đã đánh một trận lớn trên sông Bạch Đằng. Đại Thắng, Ngô Quyền lên
ngôi Hoàng Đế - và là vị Trung Hưng Hoàng đế thứ nhất.
- Sau khi cướp
ngôi của nhà Trần, năm 1407 cha con Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt về Kim Lăng giam
giữ. Nhà Minh chính thức đô hộ đất nước ta - Nước Đại Việt rơi vào cảnh nô lệ.
Năm 1418 Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, kháng chiến mười năm chống quân Minh. Ngày
14/4 năm Mậu Thân 1428 Lê Lợi hoàn thành xứ mệnh cứu nước, lên ngôi Hoàng đế,
Trung Hưng đất nước - và là vị Trung Hưng Hoàng đế thứ hai của dân tộc.
- Vào các năm cuối của thế kỷ 18,
Hoàng Tử Cảnh của vua Gia Long theo chân Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện và làm
con Tin. Hoàng Tử Cảnh bị chết vì bệnh đậu mùa năm 1801. Mầm mống nô lệ thuộc
Pháp có từ đó. Dân ta quen gọi: Gia Long cõng rắn cắn gà nhà.
- Tháng 8 năm 1945 cuộc cách mạng
giành chính quyền nổ ra, ngày 2 tháng 9 năm 1945 Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc
lập và làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - và là vị Trung Hưng Hoàng
đế thứ ba của dân tộc Việt Nam.
Các vị vua khác lên ngôi khi đất nước
có chủ quyền, có chăng nữa chỉ là các cuộc tranh chiếm, bạo loạn trong nội bộ
Quốc gia, nên không gọi là Trung Hưng.
DANH SÁCH LIỆT SỸ
thuộc họ Lê Hữu -
Làng Vệ Yên
------------
TT
|
Họ và tên
|
Đời
|
Cành
|
Nhập ngũ
|
Hy sinh
|
|
Ngày dương
|
Ngày âm
|
|||||
1
|
Lê Hữu Tài
|
21
|
1
|
7/1967
|
31/7/1968
|
7/7 Mậu Thân
|
2
|
Lê Hữu Cường
|
1
|
7/1964
|
28/3/1968
|
30/2 Mậu Thân
|
|
3
|
Lê Hữu Toàn
|
1
|
7/1977
|
1978
|
CT Biên Giới
|
|
4
|
Lê Hữu Chung
|
1
|
1978
|
03/01/1979
|
5/12/ Mậu Ngọ
|
|
5
|
Lê Hữu Hiên
|
21
|
2
|
1965
|
18/9/1970
|
18/8 Canh Tuất
|
6
|
Lê Hữu Chức
|
19
|
2
|
1945
|
25/01/1972
|
10/15 Tân Hợi
|
7
|
Lê Hữu Khôi
|
21
|
2
|
12/7/1972
|
2/6 Nhâm Tý
|
|
8
|
Lê Hữu Hạnh
|
20
|
3
|
1967
|
02/3/1970
|
25/1 Canh Tuất
|
9
|
Lê Hữu Trường
|
21
|
3
|
4/1970
|
13/4/1972
|
30/2 Nhâm Tý
|
10
|
Lê Hữu Hinh
|
21
|
3
|
1968
|
05/6/1971
|
16/7 Tân Hợi
|
11
|
Lê Hữu Phi
|
21
|
3
|
10/1966
|
14/6/1968
|
19/5 Mậu Thân
|
12
|
Lê Hữu Nghi
|
21
|
3
|
8/1964
|
18/12/1972
|
13/11 Nhâm Tý
|
*
Ghi chú:
Năm
1986: Nhuận 2 tháng 7
Lê
Hữu Tài hy sinh ở tháng 7 đầu của năm nhuận.
DANH SÁCH LIỆT SỸ
ở xã thọ thanh -
huyện thường xuân
------------
TT
|
Họ và tên
|
Đời
|
Cành
|
Năm sinh
|
Hy sinh
|
|
Ngày dương
|
Ngày âm
|
|||||
1
|
Lê Hữu Ê
|
20
|
1
|
1922
|
1952
|
|
2
|
Lê Hữu úy
|
21
|
1
|
1943
|
||
3
|
Lê Hữu Hòa
|
21
|
1
|
1955
|
||
4
|
Lê Hữu Chung
|
21
|
1
|
1954
|
1972
|
|
5
|
Lê Hữu Nam
|
21
|
1
|
1948
|
1970
|
|
6
|
Lê Hữu Thơi (anh)
|
21
|
1
|
1942
|
1971
|
|
7
|
Lê Hữu Thai (em)
|
21
|
1
|
1948
|
1966
|
|
8
|
Lê Hữu Nhung (anh)
|
20
|
1
|
1940
|
31/3/1969
|
|
9
|
Lê Hữu Chính (em)
|
20
|
1
|
1949
|
6/4/1970
|
|
10
|
Lê Hữu Can
|
21
|
1
|
1946
|
1972
|
|
11
|
Lê Hữu Tiến
|
21
|
1
|
1957
|
1981
|
DANH SÁCH LIỆT SỸ
Họ Lê Hữu - Thôn Vệ
Yên
------------
TT
|
Họ và tên
|
Cành
|
Đời
|
Nhập ngũ
|
Hy sinh
|
|
Ngày dương
|
Ngày âm
|
|||||
1
|
Lê
Hữu Tài
|
1
|
21
|
7/67
|
31/7/1968
|
7/7 Mậu Thân
|
2
|
Lê
Hữu Cường
|
1
|
21
|
7/64
|
28/3/1968
|
30/2 Mậu Thân
|
3
|
Lê
Hữu Toàn
|
1
|
21
|
7/77
|
78 Biên giới
|
Mậu Ngọ
|
4
|
Lê
Hữu Chung
|
1
|
21
|
1978
|
31/01/1979
|
5/12 Mậu Ngọ
|
5
|
Lê
Hữu Hiên
|
2
|
21
|
1965
|
18/9/1970
|
18/8 Canh Tuất
|
6
|
Lê
Hữu Khuê
|
|||||
7
|
Lê Hữu Chức
|
2
|
19
|
1945
|
25/01/1972
|
10/12 Tân Hợi
|
8
|
Lê
Hữu Khôi
|
2
|
21
|
12/7/1972
|
2/6 Nhâm Tý
|
|
9
|
Lê
Hữu Hạnh
|
3
|
20
|
1967
|
02/3/1970
|
25/1 Canh Tuất
|
10
|
Lê
Hữu Trường
|
3
|
21
|
4/1970
|
13/4/1972
|
30/2 Nhâm Tý
|
11
|
Lê
Hữu Hinh
|
3
|
21
|
1968
|
05/9/1971
|
16/7 Tân Hợi
|
12
|
Lê
Hữu Phi
|
3
|
21
|
10/1966
|
14/6/1968
|
19/5 Mậu Thân
|
13
|
Lê
Hữu Nghi
|
3
|
21
|
8/1964
|
18/12/1972
|
13/11 Nhâm Tý
|
DANH SÁCH LIỆT SỸ
cành nhất họ lê hữu
Bái
hạ - thọ thanh - thường xuân
------------
TT
|
Họ và tên
|
Cành
|
Đời
|
Nhập ngũ
|
Hy sinh
|
|
Ngày dương
|
Ngày âm
|
|||||
1
|
Lê
Hữu Ê
|
1
|
20
|
1992
|
1952
|
Nhâm Thìn
|
2
|
Lê
Hữu úy
|
1
|
21
|
1943
|
12/1964
|
Giáp thân
|
3
|
Lê
Hữu Hòa
|
1
|
21
|
1955
|
29/1975
|
18/12 Giáp dần
|
4
|
Lê
Hữu Chung
|
1
|
21
|
1954
|
1972
|
Nhâm Tý
|
5
|
Lê
Hữu Nam
|
1
|
21
|
1948
|
1970
|
Canh Tuất
|
6
|
Lê Hữu Thơi (anh)
|
1
|
21
|
1942
|
1971
|
Tân Hợi
|
7
|
Lê
Hữu Thai (em)
|
1
|
21
|
1948
|
1966
|
Bính Ngọ
|
8
|
Lê
Hữu Nhung (anh)
|
1
|
20
|
1940
|
13/3/1969
|
14/2 Kỷ Dậu
|
9
|
Lê
Hữu Chính (em)
|
1
|
20
|
1949
|
6/4/1970
|
01/3 Canh Tuất
|
10
|
Lê
Hữu Can
|
1
|
21
|
1946
|
1972
|
Nhâm Tý
|
11
|
Lê
Hữu Tiến
|
1
|
21
|
1957
|
1981
|
Tân Dậu
|
Mẹ Việt Nam anh Hùng
Bà :
Lê Thị Vân người làng Bái Hạ - Dòng họ Lê Đình
Mẹ
của liệt sỹ Lê Hữu úy hy sinh 1964 ở
miền Nam.
Bà : Nguyễn Thị Điệu - cành bốn - Quỳnh Vinh
Anh
hùng LLVTN Lê Đăng Tới - cành bón - Quỳnh Vinh.
Học vấn
TT
|
Họ và tên
|
Cành
|
Đời
|
Ngành, trường học
|
1.
|
Lê Hữu Quang
|
1
|
21
|
Đại học Sư phạm - Cao học QLGD
|
2.
|
Lê Thị Duyên
|
1
|
22
|
Tài chính - Kế toán Đại học Hồng Đức
|
3.
|
Lê Mỹ Trang
|
1
|
22
|
Kinh tế quốc dân Hà Nội
|
4.
|
Lê Hữu Dụ
|
1
|
20
|
Đại học Thông tin Bưu Điện
|
5.
|
Lê Trung Duệ
|
1
|
20
|
Đại học Sư phạm Vinh
|
6.
|
Lê Hữu Tiến
|
1
|
21
|
HV Công nghệ Bưu chính Viễn Thông
|
7.
|
Lê Hữu Giất
|
1
|
20
|
Đại học Thông tin Bưu điện
|
8.
|
Lê Quang Hòa
|
1
|
21
|
Điện tử viễn thông ĐH Bách Khoa
|
9.
|
Lê Quang Hiệp
|
1
|
21
|
Đại học giao thông - Cao học BCVT
|
10.
|
Lê Thị Hạnh
|
1
|
21
|
Đại học Ngoại ngữ - Cao học Anh Văn
|
11.
|
Lê Thị Hà
|
2
|
21
|
Đại học Kinh tế quốc dân
|
12.
|
Lê Hữu Lâm
|
2
|
20
|
Học viện Phòng không Ô đét xa
|
13.
|
Lê Thanh Truyền
|
2
|
20
|
Đại học Luật
|
14.
|
Lê Thị Dung
|
2
|
20
|
Đại học tổng hợp Hà Nội
|
15.
|
Lê Hữu Chính
|
2
|
20
|
Đại học An Ninh - Cao học Luật
|
16.
|
Lê Thị Thúy Nga
|
2
|
21
|
Đại học Sư phạm I Hà Nội
|
17.
|
Lê Thị Thu
|
2
|
21
|
Đại học Ngoại Ngữ
|
18.
|
Lê Thị Minh
|
2
|
21
|
KTTC Hồng Đức
|
19.
|
Lê Minh Tường
|
2
|
21
|
Kinh tế Quốc dân Hà Nội
|
20.
|
Lê Mạnh Tấn
|
2
|
21
|
Công nghệ Sinh học ĐH Phương Đông
|
21.
|
Lê Thanh Tuấn
|
2
|
21
|
Đại học Bách khoa - Cao học
|
22.
|
Lê Thị Tú Oanh
|
2
|
21
|
Đại học Hồng Đức
|
23.
|
Lê Hữu Linh
|
2
|
21
|
Đại học Bách khoa
|
24.
|
Lê Hữu Nghĩa
|
2
|
21
|
ĐH văn hóa QG
|
25.
|
Lê Thị Hoa
|
2
|
21
|
Đại học Sư phạm I Hà Nội
|
26.
|
Lê Hữu Quế
|
2
|
21
|
Đại học Xây dựng
|
27.
|
Lê Anh Nhân
|
2
|
20
|
Cao học Lý luận
|
28.
|
Lê Thị Nhung
|
2
|
21
|
Sư phạm Hồng Đức
|
29.
|
Lê Thị Sâm
|
2
|
21
|
Sư phạm Vinh
|
30.
|
Lê Thị Tâm
|
2
|
21
|
HV Hành chính QG
|
31.
|
Lê Thị Ngọc
|
2
|
21
|
Đại học Sư phạm Mầm non
|
32.
|
Lê Hữu Loan
|
3
|
20
|
Đại học Y khoa Hà Nội
|
33.
|
Le Thị Tú Quỳnh
|
3
|
22
|
Quản trị kinh doanh
|
34.
|
Lê Thị Ngân Hoa
|
3
|
22
|
ĐH Quân Sự ngành tin học
|
35.
|
Lê Thị Hoa
|
3
|
21
|
Đại học Sư phạm I Hà Nội
|
36.
|
Lê Hữu Hùng
|
3
|
21
|
Đại học Bách khoa
|
37.
|
Lê Hữu Thạo
|
3
|
20
|
Đại học Sư Phạm Vinh
|
38.
|
Lê Hữu Minh
|
3
|
21
|
Đại học Quân Sự
|
39.
|
Lê Hữu Hà
|
3
|
21
|
Đại học Thương mại
|
40.
|
Lê Hữu Tạo
|
3
|
21
|
Đại học An ninh
|
Khảo dị
Niên đại của nhà thờ họ Lê Hữu
Gia phả bị hỏng, bản dịch của ông Lê Hữu Ngân vì thế
mà không có niên đại xây nhà thờ. Căn cứ vào niên đại của bức đại tự ghi: “Khánh nguyên thì thế”.
Thăng long xuân Nhâm
Tý
Suy
luận ta thấy:
1972 là năm Nhâm Tý

1852 Là
các năm Nhâm Tý, trừ lùi 60 năm
1792
1783
là năm Quý Mão
Tháng Giêng Lê Duy Khiêm được tôn là
Hoàng Thái Tôn, sau này là Lê Chiêu Thống. Các triều đại VN trang 243.
1792
là năm Nhâm Tý. Vua Quang Trung băng hà, năm nay nghiệp đế vương của nhà Hậu Lê
đã hết. Các triều đại VN trang 253.
1732
là năm Nhâm Tý. Trịnh Giang truất ngôi của Hôn Đức Công, triều đình đang rối
ren. Các
triều đại VN trang 237.
1672
là năm Nhâm Tý. Ngày 19/11/1671 năm Tân Hợi Lê Gia Tông đăng quang. Các triều đại VN trang 234.
1612
là năm Nhâm Tý. Vua Lê Kính Tông ở ngôi 1600 - 1619. Trong bản dịch của ông Lê
Hữu Ngân ghi: Khi Lê Duy Tân lên ngôi vua Lê Kính Tông, đã phong cho chú họ là
cụ Lê Đạt về bảo quản giáp Vệ Yên, nên bức đại tự từ Hà Nội đưa về năm đó cùng
với sắc phong. Suy luận như vậy chắc
chắn hơn. Niên đại của nhà thờ cũng vào khoảng các năm đó “1600 - 1619”. Các
triều đại VN trang 228.
Kết
luận: Nhà thờ họ Lê Hữu có ở làng Vệ Yên từ năm 1612.
Lễ và kỵ
Ngày âm lịch tại nhà
thờ Họ và Cành
A. Đại huý kỵ - Giỗ:
Ngày giỗ tổ 10 tháng
01
Giỗ hai bà Cô Tổ: Bà chị 08 tháng
4
Bà em: 06
tháng 3
Giỗ cụ Lê Chí - Tổ cành Nhất 16
tháng 7
Giỗ cụ Lê Mai - Tổ cành Nhì 04
tháng 4
Giỗ cụ Lê Vũ - Tổ cành Ba 26
tháng 1
Giỗ cụ Lê Nghiêm
Công - Tổ cành Bốn 14
tháng 1
Giỗ cụ Lê Kiên - Tĩnh Gia 16
tháng 1
B. Lê Thường Niên
Lễ
Thượng Nguyên 15
tháng 1
Lễ
Thanh Minh 03
tháng 3
Lễ
Vào Hạ 15
tháng 4
Lễ
Đoan Ngọ 05
tháng 5
Lễ
xá tội Vong nhân 15
tháng 7
Lễ
Cơm mới 15
tháng 10
Lễ
Tất niên 15 tháng 12
Lễ
Giáp ấn - Chạp Lăng 25
tháng 12
Tết
Nguyên Đán 30
tháng 12
Lễ
Ngày Tuần 14
và 30 hàng tháng
Con cháu trong Họ nhớ về nhà Thờ họ bái
Tổ
Nguồn gốc hào hùng của Tổ tiên đã hun đúc dòng máu anh hùng chảy mãi trong mỗi trái tim con em dòng họ Lê Hữu chúng ta!
Năm 2012, Nhà thờ họ Lê Hữu đã được công nhận là di tích lịch sử cấp Tỉnh (nhân kỷ niệm 400 năm)

Năm 1612 từ đường xây xong, vua Lê Kính tông từ Thăng Long gửi về bức đại tự đề 4 chữ “Khánh nguyên thùy thế”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét